Thứ Hai, tháng 5 05, 2025

Ba lần đi phép ra Bắc


Trong 4 năm ở bộ đội, tôi có 3 lần đi phép ra Bắc theo chế độ như mọi người khác. Hồi đó cơ bản đơn vị thì không có việc gì nhiều, đi về bằng tàu xe lại rất khó khăn nên mỗi lần đi phép có khi thời gian ghi trên giấy phép và các chế độ[1] cắt theo phép ít nhất 45 ngày (một tháng rưỡi). Quy định đi lại qua đường giao liên, khi có giấy nghỉ phép thì người đi phép đem giấy đến các đơn vị Trạm khách (kí hiệu các T như T80, T82…) để đăng kí, các Trạm khách chờ thủ tục tàu xe để xếp cho từng nhóm đi. Khó nhất là chờ tàu hỏa vì mỗi đoàn tàu thống nhất chỉ có vài toa dành quân sự mà quân đội nên có khi phải chờ cả tháng. Ở các tỉnh ngoài Bắc khi trở vào lại càng khó vì họ cũng phải đăng kí trả phép qua các T80 của Tỉnh đội, mà khách đi vào luôn có hiện tượng nhiều hơn so với đi ra nên việc phải chờ hàng tháng kể từ khi đăng kí là chuyện thường. Thành thử mỗi lần đi phép cứ ít ra phải vài tháng mới trở về đơn vị được.

Lần thứ nhất tôi đi phép tháng 7-1982, tức là sau khi đã ở Cục Kinh tế QK9 hơn 1 năm. Đó là một kì phép khá “dữ dội” cả về đi lại đời sống kinh tế. Trước đấy một số anh em trong đơn vị đã đi phép về Bắc nên tôi cũng đã hỏi han được một số thông tin đi lại. Lại đúng vào dịp miền Bắc gặp nạn đói năm 1982. Có lẽ đó là lần đói trên diện rộng cuối cùng có tính chất nghiêm trọng mà tôi còn nhớ. Rồi chính sách “ngăn sông cấm chợ”[2], nhất là cấm vận chuyển lương thực để chống buôn bán đầu cơ nên cái đói càng dữ dội. Hồi đó mấy anh em trong đơn vị thường ra bưu điện tỉnh Hậu Giang để mua gạo gửi qua bưu điện về cho gia đình, ngặt nỗi bưu điện chỉ cho gửi dưới 5 kg/lần nên nói chung có gửi mỗi tháng vài chuyến thì cũng chẳng giải quyết được gì. Sau đó nghe nói ngành bưu chính lại hạn chế mỗi người chỉ được gửi 1 lần/tháng nên mọi người cũng không gửi được gạo về. Vì thế chúng tôi đi phép từ Cần Thơ ra Bắc thì ai cũng mang gạo trong chuyến đi phép này. Tôi cũng ra chợ mua 100kg gạo ngon mang theo trong chuyến đi phép ấy như mọi người.

Xe đi từ Trạm khách T80 Vĩnh Long. Tại đó tôi cũng gặp nhiều anh em cùng vào đợt với chúng tôi đang tập trung ở đây chờ xe. Vì chúng tôi ở Cần Thơ cũng gần nên cứ theo giấy hẹn lên Trạm, không phải chờ ở đây lâu như anh em các tỉnh khác trong QK9 (có anh ở Kiên Giang lên đã chờ ở đây cả tuần). Tôi có gặp anh Từ Quang Phương (ĐH KTQD) cùng đi chuyến này. Anh Phương có biết anh Thoải và anh Chuyên ở Cục Kinh tế QK9.

Chúng tôi được xe tải chở lên Trạm khách Hố Nai, Đồng Nai để chờ tàu. Khoảng cuối giờ chiều xe đến cửa Trạm, mọi người kéo gạo xuống chờ nhau qua cổng Trạm để vào làm thủ tục lấy vé lên tàu từ ga Hố Nai. Cái khó nhất bây giờ tôi mới biết là ở đây quy định mỗi người chỉ được qua trạm 1 lần nên phải mang vác tất cả các đồ theo, không được quay ra mang tiếp. Thế là ai cũng một bao gạo trên lưng, một bao kéo theo, còn cái ba lô thì đeo phía trước qua cổng Trạm. Một hàng lính vệ binh đeo băng đỏ đứng kiểm soát. May mà cũng chỉ hơn chục mét là chúng tôi hất gạo xuống và giúp nhau kéo dần vào phòng chờ Trạm khách nghỉ, ăn tối để đến đêm thì ra tàu. Khi ra ga thì đã trời đã tối, xe tải vào đón từ trong Trạm nên không còn cái cảnh lưng đeo tay kéo như lúc vào Trạm. Khi tàu đến, chúng tôi lần lượt kéo nhau lên toa tàu Quân sự theo số ghế ghi toa và chỗ ngồi trên vé[3], gạo thì để dọc lối đi gần chỗ ghế ngồi. Trên tàu ai cũng có chỗ ngồi, lại được phát thức ăn 2 lần/ngày, ai muốn ăn thêm thì các ga người ta lên tàu bán hoặc xuống sân ga mua ăn thêm các sản vật địa phương. Tuy các thứ bán theo tàu không ngon lắm nhưng cũng có thể mua được. Qua ga xoài, ga mực khô, cá khô, ga , ga đường phèn[4]… mọi người mua được quà về quê vì bọn tôi là sĩ quan nên cũng có vài đồng lương dành dụm về phép.

Tàu ì ạch đến Thanh Hóa mất 3 đêm, buổi trưa tàu đến ga Thanh Hóa. Tôi kéo được 2 bao gạo xuống thì thuê một chiếc xích lô chở vào Sở Nông nghiệp Thanh Hóa. Khi đó có các anh chị cùng lớp Đại học là anh Chu Văn Khang, anh Mai Thế Lương, anh Cao Văn Hường và chị Nguyễn Thị Liên đang công tác ở đây. Mang được 100kg gạo từ Nam ra Bắc, ngay từ sân ga tôi đã thấy những ánh mắt cảm phục và thèm muốn. Đến phòng ở của anh Khang tôi thấy mọi người xúm vào hỏi thăm. Tôi nghĩ lúc đó tôi như “người hùng” vì tôi có tới cả tạ gạo quý giá đúng vào lúc mọi người đang đói kém. Trưa đó tôi mời anh Khang và anh Lương ra quán phở Thắm. Tôi thấy các anh đều chọn phở thịt bò sốt vang, tôi hỏi sao không chọn món phở bò tái thì anh Lương bảo ở đây ngon nhất món phở tái nhưng món sốt vang[5] thì có nhiều thịt hơn món phở tái (khi đó ai cũng thiếu thịt).

Buổi chiều tôi để cho anh Khang một ít gạo, còn lại thì tôi mượn xe đạp của anh Khang đèo về nhà. Đến quê thấy cảnh đói kém hoang tàn quá, ruộng đồng chưa thu hoạch mà làng xã đã hết gạo ăn, HTX năm đó chia tiêu chuẩn lương thực quá thấp nên nhìn thấy dân gầy đói xanh xao, thương quá chừng. Lại một lần nữa tôi có gạo đem về được đúng lúc đó được coi như “địa chủ” của làng.

Về quê cũng chỉ hỏi thăm gia đình bà con thân thuộc, không có đi chơi gì trừ chuyến ra Hà Nội thăm anh trai và ghé qua chỗ chị Lục ăn bữa cơm với mẹ con chị. Anh trai cho tôi đưa cháu Thắng (con trai lớn của anh chị sinh 1972) về quê chơi. Khi đến ga Bỉm Sơn thì ghé thăm chú Tạo. Thắng khi đó còn nhỏ tuổi mà đi bộ được gần 6km cùng chú đến nhà chú Tạo, giỏi ghê.

Tôi ở nhà được khoảng 1 tháng thì cô cháu (gọi tôi bằng cậu) làm việc ở UB xã mang cho tôi một lá thư của bạn gái từ ĐH Cần Thơ gửi cho tôi (qua địa chỉ của cháu vì tôi nghĩ địa phương không ai biết tên tôi, sợ thư không đến). Thấy thư đã bóc ra, cháu nói thấy gửi tên cháu nên mọi người bảo bóc thư xem ai gửi (mặc dù phong bì đã có ghi rõ chữ gửi giùm cho anh Lê Hữu Ảnh). Thư của cậu mọi người đọc cả rồi, thư cô bạn ấy viết hay, ai cũng buồn cười. Cái hồi ấy vô tư thế, thư từ riêng của người ta mà cũng “kiểm duyệt” tự do quá.

Lần đó còn một kỉ niệm đáng nhớ nữa: vì chúng tôi có giấy phép, lại có chế độ cắt lương thực để về địa phương mua gạo nên tôi mang theo giấy tờ vào kho lương thực chợ Nưa, Tân Ninh lấy gạo. Kho gạo vắng tênh, chỉ rất ít người lấy được gạo ra về. Thì ra hồi này những người có tiêu chuẩn gạo đều được trả bằng phân ure theo một tỉ lệ quy đổi nào đó. Chị gái tôi là giáo viên mà đi lấy gạo thì mang về bao phân ure đem ra chợ bán lấy tiền mua gạo (nghe nói còn thiệt hơn là lấy được tiêu chuẩn gạo 13,5kg/tháng của chị). Tôi tiêu chuẩn bộ đội 17kg/tháng, đơn vị cắt gạo 2 tháng nên tôi được mua 34kg gạo mậu dịch. Buộc bao gạo ra khỏi kho mà thấy mình oai lắm, có cả đống của lúc dân đói. Khi ra đến ngã 3 Nưa thì một cây luồng vắt ngang đường có người gác chặn lại hỏi tôi chở gì, tôi đưa giấy tờ ra thì họ cho đi qua. Đến xã Đồng Lợi, tôi lại gặp một trạm gác hỏi tôi chở gì, sao lại có nhiều gạo chở đi trên đường như thế. Tôi trình bày giấy tờ thì được dẫn vào tận UBHC xã để kiểm tra rồi mới được đóng dấu cho qua. Đến xã nhà, tôi cũng bị hỏi và mặc dù người cùng xã nhưng quy định ở đây gay gắt hơn. Tôi buộc phải đem gạo vào gửi ở phòng có khóa chặt rồi vào làm thủ tục. Đến buổi chiều tôi mới lên lấy được gạo về nhà. Hôm mang cả tạ gạo từ ga về qua huyện Đông Sơn không ai hỏi gì mà hôm ấy chỉ mang 34kg qua 3 xã ở huyện Triệu Sơn đã bị 3 trạm kiểm soát gắt gao. Khi đó mới thấy cái thời “ngăn sông cấm chợ” ấu trĩ kinh tế. Điều đó làm khổ dân ta đến chừng nào?

Chuyến đi này thì chỉ nhớ có cái đói là chính. Mấy bạn tôi đi phép trước có nói khi vào có tiền thì mang theo mấy thứ có thể vào bán có lời như giấy than (để đánh máy), lưỡi dao cạo râu, xăng dầu… Tôi không có tiền nên không mua bán gì, tuy nhiên cũng mấy lần ghé qua các chợ ở Thị xã để xem chợ Vườn hoa có gì khác so với hồi tôi học trọ cấp III ở Thị xã đôi khi có ra chợ chơi. Và lần ấy tôi đã gặp Nguyễn Phương Tuấn bạn học lớp 10C trong chợ, Tuấn khi ấy hình như cũng đang là bộ đội.

Lại thủ tục đăng kí qua Trạm T80 Thanh Hóa (ở gần Ngã Ba Bia), tôi chờ lấy được vé rồi vào. Trên tàu cũng như khi về, toàn bộ đội được xếp vào một toa. Đúng là có nhiều anh đem theo những thứ có thể bán được, nhiều nhất là tỏi. Một anh có cái can xăng để trong ba lô gác trên giá bị vệ binh trên tàu phát hiện và tịch thu vì sợ hỏa hoạn. Tàu lại ì ạch qua 3 đêm vào Sài Gòn.

Chuyến đi phép lần 2 là hồi tôi đã chuyển về Cục Hậu cần, cũng vào mùa hè năm 1983. Lần này thì không ai mang theo gạo nữa nhưng dù sao thì trong Nam cũng nhiều thứ mua về làm quà hoặc bán được nên bộ đội ai cũng có 2 cái ba lô to. Tuy nhiên không vất vả như mang gạo rất nặng như lần trước. Trên tàu ra Bắc, tôi có xuống sân ga nào đó và mua được một con vẹt rất đẹp mang về. Sau chừng 1 tháng, con vẹt đã gặm đứt cái lồng đan bằng nan tre bay mất khi tôi đi chơi mấy ngày.

Luật Sĩ quan năm 1982 về chính sách sĩ quan đã làm rõ là sĩ quan có thể được chuyển ngành nên chúng tôi đều ra Bắc đều có ý thăm dò việc làm. Lúc này cơ bản tôi chú ý đến khả năng xin việc ở Sở Nông nghiệp Thanh Hóa, nơi có anh Khang và mấy anh chị em cùng lớp đang làm ở đây. Tôi cũng cơ bản nhận ra công việc ở chỗ các anh không có gì hấp dẫn lắm, nhưng nếu xin về đây thì dù sao cũng gần nhà, tối có thể về ngủ với bố để tiện chăm sóc. Bố tôi lúc này cũng đã gần 80 tuổi, lại đang ở một mình.

Tôi ra Hà Nội trao đổi với anh tôi về chuyện ra quân chuyển ngành. Anh nói bây giờ chuyển ngành về được Hà Nội là rất khó vì người ta kiểm tra rất chặt chỉ tiêu nhập khẩu Hà Nội. Tôi ghé thăm chị Lục ở Công ty chị đang làm việc (số 6 Nguyễn Công Trứ). Tại đây tôi có gặp bạn Chiến cùng lớp ĐH đang làm ở Công ty Bông Trung ương. Chị Lục cũng nói nhiều về những khó khăn trong xin việc và nhập khẩu về Hà Nội lúc bấy giờ.

Lần đi phép này không có nhiều chuyện đáng nhớ, tôi chỉ biết là trong thời gian ở quê, tôi được Bính hay ai đó báo là nên vào sớm để xem câu chuyện người ta sắp tổ chức kết nạp Đảng cho chúng tôi.

À, một chuyện còn lưu lại chợt nhớ ra: tàu đến ga Bình Triệu còn khuya về sáng nên chúng tôi xuống tàu rồi ngồi chờ sáng mới bắt xe đến bến xe Miền Tây để lấy vé về Cần Thơ. Tôi nằm bên hè đường, gối đầu lên cái ba lô và ngủ quên một lúc. Mơ thấy như có cái gì đó nạo nạo vào gót chân. Tôi tỉnh dậy: thì ra đôi giày tôi đã cởi ra để bên cạnh, con chuột đói chắc ngửi mùi cái chân đi tất của tôi mấy ngày không tắm nên đã gặm thủng tất, gặm luôn một mảng gót chân to bằng cả đồng xu. Cái vết chuột gặm đó tôi thấy đau và đã tỉnh dậy. Phải mấy tháng sau da dưới bàn chân mới lấp đầy chỗ chuột gặm.

Lần này tôi thấy nhà anh tôi có cái radio bé tẹo hỏng nên tôi mang vào nhờ thầy Liễn (chồng cô Hòa) sửa và nó kêu được nên tôi có cái radio để nghe đầu giường. Cứ nghe tiếng sột sột là rõ, còn tiếng phát thanh viên thì như xa xôi lắm, nhưng coi như có cái nghe tin tức một mình ban đêm cũng rất hay. Chuyến đi phép này tôi cũng xin được một số phụ tùng xe đạp cũ mọi người không dùng đem vào để dự định lắp một cái xe đạp cho mình.

Lần đi phép thứ 3 khoảng giữa năm 1984. Tôi về Bắc chủ yếu là chuyện đi xin nơi nhận việc để vào làm thủ tục chuyển ngành. Theo chế độ, lúc này chúng tôi có thể ra quân vào cuối năm 1984 nếu xin được giấy tiếp nhận công việc. Lấy tiêu chuẩn về quê là chính, anh Khang đã giúp tôi xin được giấy tiếp nhận về tỉnh công tác từ Ban Tổ chức Tỉnh Thanh Hóa.

Tuy nhiên tôi cũng ra Hà Nội để tham khảo ý kiến anh trai tôi và chị Lục lần nữa. Từ tháng 5-1984, anh trai tôi đã viết thư cho tôi bàn kĩ về việc tôi nên xin công tác ở đâu sau khi ra quân. Cả chị Lục cũng rất quan tâm và cũng gửi thư cho tôi vào tháng 5-1984.

Một lần tôi nghĩ mình nên về thăm trường Đại học Nông nghiệp I chỉ để nhớ một thời đã học ở đây. Tôi còn nhớ khi đó đã ngủ ở Ký túc xá sinh viên, chỗ mấy em sinh viên cùng quê đang học khóa 26 ngành Chăn nuôi. Tôi được các em làm mẹo lấy thêm cơm cho tôi ăn cùng bằng cách sửa phiếu ăn ngày khác thành phiếu ăn ngày đó rất tinh quái (em Hoạt và em Nghị lấy lưỡi dao lam cắt ngày trên phiếu và dán vào ngày đó ngày khác, các bác phát cơm không thể phát hiện được). Tôi có gặp Mác đang là giáo viên ở Khoa Kinh tế Nông nghiệp, gặp anh Hợp đang làm ở Phòng Tài vụ và anh Đĩnh đang làm việc ở Phòng Tổ chức. Riêng anh Đĩnh nói nếu tôi chuyển về trường thì từ trường người ta sẽ phân công công tác theo chỉ tiêu của trường. Tuy nhiên, vì Ảnh hồi ra trường tốt nghiệp loại giỏi nên có đủ tiêu chuẩn giữ lại trường. Nay nếu Khoa Kinh tế có nhu cầu thì sẽ có thể trường sẽ chuyển về Khoa công tác.

Tôi nghe thì biết vậy thôi nhưng nghĩ ngày tôi tốt nghiệp Đại học (1980) đúng là mình đủ quy định về điểm để ở lại làm giảng viên đại học, nhưng điều đó là tiêu chuẩn của 4 năm trước rồi. Gặp anh Hợp thì anh nói cứ xin chuyển về trường rồi tính, nếu không làm giảng viên thì xem có xin được về Phòng Tài vụ với anh hay phòng ban khác cũng được. Dù sao mình hoàn thành nghĩa vụ cũng có thể được ưu tiên. Có gì anh sẽ giúp đỡ vì bây giờ anh cũng có quan hệ với nhiều người.

Hôm tôi lên khu nhà tập thể của giáo viên Khoa Kinh tế gặp Mác. Mác kể rằng khóa 20 chỉ có Mác và anh Việt ở lại làm giảng viên, nhưng làm giảng viên chán lắm, chỉ có lương thôi lại rất thấp. Mấy năm nay nhiều anh em đủ tiêu chuẩn ở lại nhưng họ đều từ chối xin đi làm nơi khác. Khóa 21 thì khá đông anh em chấp nhận ở lại nhưng khóa 22 chỉ có 2 người (Thao và Lan), còn khóa 23 thì không ai muốn ở lại nữa. Đấy ông nhìn tôi chỉ có cái giường tập thể, lương không đủ ăn, vợ con ở quê tôi chẳng giúp được gì, tôi giao tất cho ông bà. Mỗi tháng tôi về đôi lần thăm vợ con thôi, chán lắm. Thực sự tôi thấy giáo viên ở đây nghèo, cũng không thấy thích thú gì lắm nên chỉ nghĩ về quê có lẽ tốt hơn.

Tạm biệt bạn Mác, tôi về khu kí túc xá sinh viên ăn trưa với mấy em cùng quê. Khi tôi về đến chỗ bếp 4 thì bỗng gặp Thầy Trần Đình Đằng[6]. Tôi định không chào vì chắc gì Thầy đã nhớ tôi, nhưng Thầy lại chào tôi trước và nói: “- Cậu là Ảnh khóa 20 đúng không”. Rồi Thầy ân cần bảo: “- Nghe nói cậu muốn xin về trường làm giảng viên đúng không”? (Ai nói nhỉ, hay anh Hợp đã gặp Thầy Đằng và nói với Thầy rồi). Tôi ầm ừ ngượng quá vì đã định không chào Thầy thì Thầy lại hỏi quan tâm đến thế. Thầy nói nếu có muốn về Khoa Kinh tế nông nghiệp làm giảng viên thì Khoa sẽ nhận vì cậu đã đủ tiêu chuẩn ở lại trường. Khoa lúc này đang thiếu một giảng viên dạy môn Tài chính nông nghiệp. Tôi cám ơn Thầy rồi tôi nhờ anh Đĩnh giúp cái giấy tiếp nhận để tôi mang vào làm thủ tục chuyển ngành.

Một lần tôi gặp anh Bảo, trước anh học Kinh tế khóa 18, ĐH Nông nghiệp I. Anh khi đó đang dạy tại trường Trung cấp Đo đạc Bỉm Sơn. Anh nhận ra tôi khi đi đường và gọi tôi nói chuyện. Anh nói nếu có điều kiện thì Ảnh nên xin việc ở phía Nam, ở ngoài Bắc khổ lắm, nhất là đừng làm giáo viên vì giáo viên nghèo quá. Anh cũng đang xin về huyện cho gần vợ con chứ làm giáo viên chẳng giúp được gì cho gia đình.

Thế là lần về phép này tôi có trong tay 2 cái giấy quyết định tiếp nhận công việc để vào làm thủ tục ra quân. Tuy nhiên trong lòng thì vẫn băn khoăn lo ngại về chuyện làm giáo viên và nghĩ mình sẽ về Thanh Hóa để được ở gần bố hơn.

 

 

 



[1] Khi đó đi phép thì không còn tiêu chuẩn ăn ở đơn vị nên lương thực được cắt chuyển về địa phương mua bằng tem gạo cấp cho người đi phép.

[2] Chính sách “ngăn sông cấm chợ” về lương thực không áp dụng ở phía Nam nên khi đó ở Cần Thơ có thể mua hàng tạ gạo và vận chuyển hợp pháp.

[3] Vé tàu phải giữ lại để vào thanh toán khi trả phép.

[4] Ga có nhiều xoài là Mương Mán, ga bán nhiều cá khô, mực khô, cá ngựa khô là ga Nha Trang, ga Quãng Ngãi bán đường phèn, gà…

[5] Món bò sốt vang thì nấu và hầm bằng loại thịt không ngon (gân, những chỗ không nạc) nên được cho vào bát phở nhiều hơn thịt bò nạc làm món tái.

[6] Thầy Trần Đình Đằng khi đó là Phó Khoa Kinh tế Nông nghiệp, ĐH Nông nghiệp I. Tôi với GS TS Trần Đình Đằng còn có nhiều quan hệ thân thiết sau này. Thầy là Người hướng dẫn thứ nhất Luận án tiến sĩ của tôi khi tôi bảo vệ năm 1996 tại ĐH Nông nghiệp I Hà Nội.   

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét