Những
năm tôi ở quân ngũ tại QK9 là những năm chỉ còn lại những tranh chấp biên giới phía
Bắc và những trận đánh tàn quân Polpot ở nước bạn Campuchia, tức là những năm
tháng của thời bình. Nhưng cuộc chiến đấu mấy mươi năm của đất nước với kẻ thù,
quê hương Việt Nam vô cùng kiệt quệ và nghèo đói. Thế hệ chúng tôi có một tuổi
thơ đói nghèo và bom đạn. Cái đói, cái nghèo theo mãi cuộc sống mỗi người trong
những ngày tháng chiến tranh, trong những ngày đã im tiếng súng ở mỗi cán bộ
chiến sĩ và nhân dân trong những ngày chúng tôi là người lính trong QK9.
Dưới
đây là một số ghi chép của tôi từ những chuyện tôi chứng kiến hoặc tôi nghe kể
từ những người trong chúng tôi hồi đó.
Đối với đội ngũ sĩ quan trung-cao cấp (từ đại úy trở lên) ở QK9 hồi đó, chúng tôi thấy dù họ sống xa vợ con thì cũng đều được phân nhà công vụ trong các khu gia binh sĩ quan. Một số cán bộ cao cấp (cấp tướng) còn được phân nhà từ các căn hộ của quan chức chính quyền cũ (bị tịch thu hoặc đã ra nước ngoài). Với những cán bộ lãnh đạo Cục Kinh tế và Cục Hậu cần những năm 1980-1984 ở QK9, tôi thấy tuy họ có được những không gian riêng tư nhất định nhưng trong cái khó khăn chung của đất nước, họ cũng không có gì gọi là khá giả về đẳng cấp cuộc sống. Những trường hợp tôi đã đến tận nhà các ông Cục phó Nguyễn Nhật Quang, Trần Kì Vân, Nguyễn Hữu Chước, các ông được phân một gian nhà cấp 4 trong những căn hộ gia binh sĩ quan. Ngoài lương, họ có điều kiện tăng gia cải thiện cuộc sống như nuôi heo, nuôi gà như tôi đã có nêu trong những ghi chép trước.
Trần
Hữu Giang kể lại rằng đã có dịp đến nhà Đại tá Ngô Đức Nhường (Hai Nhường), Cục
trưởng Cục Hậu cần QK9 chỉ thấy một ông quần xà lỏn đang cầm vòi nước tắm cho
đàn heo trong chuồng, không nghĩ đó là đồng chí đại tá Cục trưởng. Tôi cũng có
dịp đến thăm nhà Trưởng Ban Doanh trại QK9 là ông Trung tá Lê Quang Minh Hoài (thường
gọi Sáu Hoài) cũng chỉ thấy ông cùng gia đình ở trong 1 gian nhà khu gia binh với
những đồ dùng giản dị, bình dân. Chỉ nêu 2 ông đó cũng cho thấy các ông đang có
quyền lực và những lĩnh vực các ông đang quản lý đều có thể có điều kiện tốt về
ăn ở và thu nhập, nhưng họ đều sống như những người tử tế và lương thiện trong
đời sống hàng ngày. Đàn heo nhà ông Hai Nhường có thể là một khoản lớn khi thu
hoạch, nhưng chuồng heo nhà ông Hai Chước mỗi năm 2 lứa khó có thể được coi là
nguồn kinh tế ổn định cho gia đình. Lại thấy ông Đại úy Ba Tri chịu khó bơi
thuyền hái rau lợn mỗi buổi chiều chắc chỉ mong tranh thủ điều kiện để cải thiện
chút ít bữa ăn sống chứ đâu thay đổi cuộc sống. Còn như con heo trong nhà ông
Trần Kì Vân là “thú cưng” chứ đâu phải con vật để bán vì nó khôn đến mức khi ông
chủ tắm thì nó chạy vào để được tắm mát cùng ông, khi có khách đến thì ra nằm để
được gãi khi chủ tiếp khách. Loại heo khôn như thế đâu có dễ bán đi được. Con
trăn nhà ông Nguyễn Nhật Quang thì làm sao bán được khi ông đã cứu nó từ vùng
nước nổi Đồng Tháp Mười trong một mùa lũ về. Họ coi con thú cưng trong nhà như
vật kỉ niệm, trang trí cho cuộc sống cô độc hàng đêm hơn là làm kinh tế. Tất
nhiên so với hạng binh lính và sĩ quan sơ cấp như chúng tôi thì không thể so
sánh được.
Tuy
vậy cũng có nhiều người được coi là giàu có như ông Thượng úy Hai Tài, Phòng
Tài vụ có Honda Cub 50 “xịn” đi làm hàng ngày, có nhà riêng ở Cần Thơ hay anh Thượng
úy Ba Đán, Phó Phòng Tài vụ có mua được nhà vườn ở Cần Thơ mà vẫn đang được ở
nhà công vụ một khu gia binh sĩ quan đẹp. Có thể rất ít người lúc ấy đã biết và
có điều kiện như các ông này.
Trước
hết, chủ trương bộ đội làm kinh tế ở QK9 nói riêng trong chính sách quân đội
làm kinh tế lúc bấy giờ có cái gì đó rất không rõ ràng khi chúng tôi nhìn nhận ở
cấp cơ sở. Như các bài tôi ghi chép trong các chuyến đi công tác địa phương, nếu
nói đó là các nông trường, nông trại đủ sức cung cấp sản phẩm cho bộ đội thì
không thể tin được đấy là cách làm kinh tế - dù là làm kinh tế kiểu “công
trường thủ công”. Đất thật nhiều, mênh mông đất hoang được khoanh giao (chủ
yếu trên giấy tờ) cho các đơn vị, hơn chục người lính trong những căn nhà không
vách gió thổi 4 mùa. Các anh lính cởi trần, quần xà lỏn cả ngày lo giữ “của cải
vô hình” là hình ảnh cái Nông trường, Nông trại chứ đâu phải họ là người làm ra
lương thực, thực phẩm tự túc cho quân đội. Mà quả thật tôi không thấy hình ảnh một
khẩu súng nào của những người lính này trong các căn nhà trống gió đó. Thử hỏi
những người lính đó làm sao kiếm được lương thực nuôi mình chứ đừng kể đến nuôi
lực lượng quân khu hay quân đội. Họ cũng chỉ được cấp gạo và quân trang. May mà
thiên nhiên ưu đãi nên họ kiếm thêm được thực phẩm từ chính những thứ họ có quanh
mình (đi câu cá, lấy rau). Cái “bô lô lộn” treo ngược trên dây màn đầu
giường là cả gia tài kinh tế của họ. Còn quân trang mỗi lần được phát thì cứ đổi
dần thành thực phẩm cho vài bữa nhậu đêm buồn… Sau này, chúng tôi được nghe anh
Quất cán bộ Tổng cục Kinh tế Quân đội nói chủ trương bộ đội làm kinh tế khi đó
chẳng qua chỉ như là giữ những căn cứ được chuẩn bị để có thể trở thành điểm
đóng quân lớn khi chiến sự xảy ra. Trong thực tế cuộc sống người lính chỉ cố lo
vấn đề ăn ở tạm thời khi thời bình, khi chưa được giải ngũ để nhẹ bớt đi cái
gánh nặng nuôi quân của đất nước. Nếu có sản xuất được chút nào thì coi như đã dành
nguồn lương thực ít ỏi cho nhân dân cả nước và dành cho sự phục hồi kinh tế sau
chiến tranh.
Nhìn
lại cuộc sống và tình cảnh người lính khi đó, tôi nghĩ với đội ngũ sĩ quan
trung-cao cấp thì ai cũng thấy và biết mình đang có được hạnh phúc là còn được
sống và làm việc so với những đồng đội của mình đã giải ngũ đang khốn khó ở quê
hoặc những người xấu số đã bỏ thân nơi chiến trường. Có lẽ rất ít ai dám nghĩ đến
sự tư lợi hay kiếm chác từ những chức vụ hay quan hệ mà họ đang có. Họ cơ bản đều
là những người tử tế, sống có lương tâm, có trách nhiệm với công việc mình đang
làm.
Còn
bọn tôi là sĩ quan sơ cấp nên thuộc nhóm“ăn đại táo, ngủ đại gia, đi đại xa,
nghe đại hội[1].”
Khi ở phố thị thì có phòng tập thể ngủ chung, có nhà ăn tập thể, quân trang nhận
đều, lương tháng nhận đủ đã là sung sướng lắm rồi. Lúc sắp ra quân, tức là sau
3 hay 4 năm trong quân đội, một số có được cái xe đạp là sang lắm rồi. Thực ra
cũng chẳng thấy phải lo gì, tìm kiếm gì ngoài những thứ được trang bị. Những thứ
mình có đã là đang hơn khối người ngoài xã hội. Những người như chúng tôi thì
cơ bản yên tâm với chế độ, vì chúng tôi biết chế độ đãi ngộ với chúng tôi khi đó
cao hơn so với những đồng nghiệp mới ra trường đang công tác ở khắp nơi: lương
chúng tôi cao hơn, chúng tôi có quân trang, có nhà tập thể, có bếp ăn bảo đảm
chế độ sống. Mấy ai nghĩ đến tương lai xa làm gì, bao nỗi khó còn bám theo
chúng tôi nhưng cũng bám sâu vào người khác hơn nhiều mà.
Còn
nhớ những tháng đầu có lương, tôi đã nghĩ đến một món quà cho gia đình. Mẹ thì
vừa mất, bố thì đã hơn 70 ở một mình, tôi nghĩ có lẽ nên mua cái gì đó thiết thực
biếu bố. Tôi đã tìm mua một gói bọt ngọt sản xuất từ Thái Lan, loại 453g. Chỉ một
gói bột ngọt 453 g mà phải dành gần 2 tháng lương mới mua được để gửi qua bưu
điện về cho bố. Thời buổi khốn khó đó có hàng đâu mà mua, còn lương tháng mấy
chục nghìn đồng, cộng với lạm phát hàng trăm %/năm thì có giải quyết được gì chứ.
Tôi nhớ mãi món quà đầu tiên tôi dành dụm được từ lương gửi về biếu bố…
Con
người lúc đó rất gần cuộc chiến vừa tạm ngưng, rất gần với những khổ đau của đồng
bào, đồng chí quanh mình, với gia đình mình nên khó có thể dám làm những gì mất
đạo đức, thiếu lương tâm. Trong nghèo đói, lòng người sống thanh thản, nhưng vất
vả quá. Hàng ngày chật vật với sự tồn tại bản năng sống, thương quá một thời con
người bị lãng phí tuổi trẻ, lãng phí tài năng và thờ ơ bỏ mặc thời gian cuộc đời…
Mà
khổ nỗi được một chút cái tình cảm và đạo đức thì lại chỉ để dìm nhau mãi
vào khốn khó!!!
[1]
Nói đùa kiểu lính: đại táo là tiêu chuẩn
ăn mức thấp nhất, ngủ thì nhà tập thể (đại gia), đi thì xe đò (đại xa)
chứ không có tiêu chuẩn xe con, họp thì phổ biến ở hội trường (đại hội)…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét