“Có lần, một thầy giáo già hỏi tôi rằng hồi mấy năm đi
bộ đội anh có được những gì? Tôi bỗng trả lời ngay rằng nhờ những năm tháng đó
mà tôi đã có được tất cả những gì tôi có hôm nay”!
Nhìn
lại những năm tháng quân ngũ ở Quân khu 9, các chuyến đi công tác đến các đơn vị
quân đội làm kinh tế, các giao tiếp và sinh hoạt với xã hội và người dân phương
Nam, tôi thấy có quá nhiều điểm lí thú. Có thể tạm tổng quát lại thành 4 điểm
chính: Một là, tôi được thỏa cái nguyện đi-lại (xê-dịch) của tuổi trẻ: mỗi
lần xách cái ba lô ra khỏi doanh trại như một dịp được biến thành cánh chim tự
do khám phá, ngắm nhìn những điều mới lạ để nhận biết, cảm thụ và từ các trải
nghiệm tích tụ thành chiêm nghiệm. Hai là, được đến với miền đất trù
phú, phì nhiêu, hào phóng của thiên nhiên và sự hào sảng của con người sinh ra
trên miền đất ấy. Chính sự hào phóng của thiên nhiên đã tạo nên con người hào sảng
xứ này. Ba là, thấy bao nhiêu điều lạ, điều chưa từng được biết kích
thích sự tò mò, ham hiểu biết và Bốn là, thấy rõ thực chất làm kinh tế của
quân đội (như một số ghi chép tôi trong blog[1]).
Tạm gọi đó là những tổng quát nho nhỏ của những năm tôi ở đây, nhưng trong li ti cuộc sống có vô vàn các chi tiết đáng nhớ, đáng yêu…
Đất
và tình người
· Một bà má bán mấy túm bánh lá dừa, lá chuối ở bến tàu,
bến xe. Chú bộ đội hỏi mua thì hồ hởi: ăn đi con, ngon lắm đó con à.
Nghe mát lòng quá! Nhìn đôi mắt bà má thấy êm đềm thân thương quá chừng. Làm
sao có được lời mời và cái nhìn thân thương ấy ở quê miền Bắc mình lúc ấy chứ?
Bao năm cái đói, cái nghèo làm tình người không còn được tự nhiên biểu lộ thành
những lời mời tha thiết, thân tình.
· Nhìn thấy một chiếc ghe máy to uỳnh đi giữa dòng rộng,
sóng duềnh đổ vào 2 bờ kinh (kênh) thì mới biết bao người gặp khổ: cô bé gầy chèo
cái ghe bé tẹo sát mé bờ thấy sóng to phải cố quay ngang mũi ghe ra chống sóng.
Nó dạng hết đôi chân bé tẹo để hướng mũi ghe đè con sóng lớn đang ập vào bờ cho
ghe khỏi lật thì mới thấy thương quá chừng. May mà con người Nam bộ thương nhau
quá. Anh lái ghe to uỳnh ấy đã hạ bớt tốc độ để sóng nhẹ bớt đi khi duềnh vào bờ.
Chắc anh nghĩ em bé đó như em gái mình. Mà đâu chỉ có em, lại có một bà má, lại
có một lão nông quấn khăn rằn, ai cũng phải xoay ngang mũi ghe đè sóng. Rồi cái
ghe máy to uỳnh ấy cứ vừa tăng tốc độ một lúc lại phải giảm tốc, ì ạch mang ghe
hàng chở khẳm chạy chậm rì rì theo lối đi của vùng sông nước đáng yêu này.
· Những bữa nhậu lai rai không câu nệ trên dưới đẳng cấp
gì, chỉ một cái li xoay vòng mà trăm câu chuyện cứ như trút cả vào cái li rồi
chui hết vào miệng, vào bụng để cái không khí bữa nhậu ấy cứ quấn lấy con người,
quấn mãi vào nhau, xoắn vào nhau. Mà hình như xứ này ai cũng biết nhậu, kể cả nhiều
phụ nữ vùng quê xa xôi ấy – như kiểu ai cũng có thể ca một vài câu cải lương, vài
điệu lí, điệu hò…
· Mấy em bé đang chơi trong ấp gặp chú bộ đội đi qua, Mấy
em cứ đứng ngây ra bên đường, tay khoanh đầu cúi để tỏ kính trọng sao mà lạ mà
yêu đến thế. Ban đầu tôi không nghĩ đấy là lối chào vì cứ tưởng bọn chúng sợ sệt
hơn là sự tỏ lòng kính trọng. Nhưng nhìn cử chỉ đứng lặng, tay khoanh đầu cúi,
tôi thấy mình được trân trọng quá chăng? Ôi cái lối giáo dục xứ này thân thương
gần gũi. Sau này khi tôi có dịp đi dạy ở các Trường Đại học phía Nam, sinh viên
xứ này khi gặp, khi chào hay ngay cả khi nói chuyện với thầy, tôi vẫn thấy cái
tay khoanh nhẹ nhàng, tự nhiên và đầy sự tôn kính. Cử chỉ nảy ra từ tính cách,
từ giáo dục hết thế hệ này đến thế hệ khác. Khi tôi đến thăm nhà bạn, em gái lần
đầu gặp khoanh tay cúi đầu chào: “Anh Hai mới dzề”. Yêu quá!
· Một hôm ngồi xe đạp ôm với một anh trung niên hay chuyện.
Chiếc xe đạp của anh sạch bóng và chắc chắn. Ngồi sau tấm lưng vững chãi của
anh thấy yên tâm khỏi lo chuyện xe phải lên dốc dài bến bắc. Được lúc rỗi rãi mời
anh “cái đen”[2]
vỉa hè, anh nhận lời và cũng nhận sự bắt hỏi đôi câu chuyện với người lính Bắc.
Anh nói thì nghe vậy: trước anh là giáo sư[3], nay chạy xe đạp ôm thấy mình
cũng sống được. Không có việc làm thì phải nghĩ cách thôi, thời cuộc thay đổi,
cái mình được học, được làm xưa nay bị coi là không dùng được thì biết làm sao,
chẳng nhẽ cứ kêu trời mãi. Bên thua bên thắng là cuộc chơi của thời cuộc, còn
mình như những con tốt trong bàn cờ làm sao chạy khỏi thời. Vả lại vừa xong việc
đánh nhau giữ nước thì ai kịp lo đến những thân phận dân gian nghèo đói chứ, phải
biết đành vậy mà sống thôi, trách ai thì có thay đổi được gì...
· Lại nhìn chị bán vé số, nhìn mấy anh tàn tật lê la
thân phận nơi phố chợ, lòng se sắt thương phận con người. Sau chiến tranh đất
nước còn nghèo quá, nhiều người còn đói khổ quá. Ôi cái đất nước thương yêu
này. Nhìn đâu cũng chỉ thấy thân thương quá đỗi quanh mình mà lại như ít nghĩ đến
cái căm phẫn của người đi ức hiếp người, người ăn chặn của người, người mưu mô,
người đòi hỏi. Dường như ai cũng đặt mình trong hoàn cảnh đất nước[4] thì mỗi số phận là một lát cắt cuộc sống còn nhiều
gian khó mà lòng thương dẫu có đó mà chưa làm gì được, không bao hết được… Lòng
thương nên sự ấm lòng bao kiếp người khốn khó!
· Cũng phải nhắc đến một chuyện mà khi tôi vào Nam chưa
thấy có ở các chợ miền Bắc (nay thì có rồi) – chuyện người bán làm cá giúp người
mua. Chúng tôi, những thằng lính nhơ ngáo ra chợ mua cá nấu canh chua. Mấy má
bán xong thì tận tình làm giúp, vừa làm cá vừa nói chuyện vui vẻ lắm. Nào là
cách làm ca dzồ phải khía rất gọn cái bụng ra để chúng không bị vỡ dạ dày to tướng,
nào là phải lạng dao khía sâu vào cái dải vây lưng của cá rô, cá lóc để khi ăn được
dễ dàng và ngon miệng, nào là cá sặc rằng khoét cái mang ra, các thác lác (rất
ít khi dám mua vì đắt) thì được các má lấy cái muỗng nạo thành những thớ thịt
trắng mềm mại bọc vào gói lá đem về… Các má làm nhanh và điêu luyện lắm, vừa
nhìn vừa nghe kể chuyện của các má, rồi xong thì buộc vào gói lá có cái dây lạt
xách về. Lại còn bọc cho một quả khóm gọt sẵn, một gói lá nhỏ mấy quả me muối,
một ít rau thơm đủ một nồi canh chua Nam bộ. Thế là mấy chú cứ “hiên ngang”
xách ra khỏi chợ mà không biết có mấy cô hàng xén đang nhìn theo cười thương mấy
anh không có người phụ giúp đi chợ.
· Câu chuyện mặc cả và cách bán hàng cũng là chuyện vùng
miền đất hết sức nhân văn sâu sắc. Người Nam thì hỏi mua trái cây thì hỏi “chục
bao nhiêu” chứ không mấy khi mặc cả giá. Chẳng hạn, khi hỏi mua trái cam, họ hỏi
giá rồi hỏi “chục nhiêu”, thường thì chục 12 ở những vùng gần châu thành, còn
vào vùng sâu hơn thì chục 14, 16 và có cả chục 18 khi tôi thấy ở khu chợ Rạch Sỏi.
Rõ ràng là từ sự ưu đãi của thiên nhiên mà người Nam vốn sẵn sản phẩm hơn nên
cách thay đổi mặc cả bằng lượng rất hay - như là sự khuyến mãi, biếu thêm trong
thương mại. Người Bắc thì không có kiểu này: khi thấy thứ ưng ý mua thì chỉ mặc
cả giá chứ không thay đổi lượng. Thiên nhiên không được ưu đãi như người Nam
nên dân xứ Bắc luôn bị khan hiếm “lượng sản phẩm”. Vì thế khi mặc cả chỉ lấy số
sản phẩm cố định, còn giá thì thảo luận “mặc cả” – co giãn đến kinh ngạc.
· Khi nghiên cứu về chợ nông thôn những năm 1980s, tôi
thấy còn một cái khác nữa của người Bắc mà người Nam không có: Một số sản phẩm
đong bán theo mớ như chè lá tươi bán bằng bốc mớ ra nón hoặc ra mẹt. Hay lạc luộc,
ngô rang đong bằng bát, bằng ống bơ… Ở các chợ quê từ rất xa xưa đã có tục mặc
cả giá xong, người bán sẽ “ướm lượng” qua bốc tay hoặc đong, nhưng người mua sẽ
tranh thủ “chộp” bốc thêm dúm lá chè, vơ vội thêm vài củ lạc… Khi đó người bán
kéo tay người mua lại để níu bớt sự “chộp trộm thân thương” coi như sự cầm tay
nhau một lát. Vì thế các cô bán chè xanh thì luôn có nhiều chàng trai đến mua để
được chạm chút vào đôi tay trắng ngần của cô bán hàng… và cô bán được rất nhanh
các sản phẩm đem ra chợ, còn đôi má thì ửng đỏ như vừa thẹn vừa vui được chạm, được
vuốt tay nhau tí chút mà không phạm quy tắc “nam nữ thụ thụ bất thân”[5]
· Rồi cái chợ nổi rất sáng tạo của vùng sông nước. Người
ta mua bán trên những ghe lớn nhỏ tụ lại ở một đoạn sông nước. Vì khó đi lại
nên người ta buộc những sản phẩm cần bán ở trên một “cây bẹo” tức là cái sào trên
ghe cho tiện tìm đến. Hồi chúng tôi ở Cần Thơ những năm 1980s thì chợ nổi Phong
Điền nổi tiếng nhất, sau này thì Cái Răng[6] hình như do tiện phát triển du lịch hơn mà có.
· Chuyện mỗi sáng người dân đi xổ cá qua sân doanh trại gọi
bộ đội ra lấy cá kèo ăn hồi tôi đi công tác ở Nông trường muối 416 Giá Rai, Bạc
Liêu. “Mấy chú ra lấy cá nấu ăn nè!” Rồi còn dặn: “Lấy đủ bữa thôi, mai lấy tiếp
cho tươi ghen!” Sản vật dễ kiếm nên tình người giản dị bao thương. Dân với quân
như thế thì quân sao đặng nỡ quên dân!
· À, còn một chuyện vui vui nữa là cách dùng từ “chịu”.
Người Nam nói “chịu” là đồng ý, còn người Bắc mà nói “chịu” thì không thể rồi. Hồi
chúng tôi vào kí túc xá rủ mấy em Đại học Cần Thơ đi xem phim, các em im lặng
không nói gì. Khi ra về, một em chạy ra nói: Nhỏ X. bảo “chịu” rồi đó anh
(nghĩa là mấy em đã đồng ý đi xem phim với chúng tôi). Giá là hiểu từ “chịu” kiểu
Bắc thì có nghĩa mấy em đã từ chối rồi.
Vài
chuyện lính
· Lại thấy anh sĩ quan đưa được vợ trẻ từ Bắc vào ở với
nhau trong những vùng nước nổi nước phèn. Làm sao quen, làm sao sống vui sống
khỏe được đây? Phải có cái nghề, cái việc làm cho cô ta chứ, lẽ nào ăn mãi theo
mấy đồng lương của chồng? Mà gái “chân quê” vùng nghèo nông thôn phía Bắc sao
quen ngay được với mùa nước nổi trắng xóa mấy tháng ròng và phèn nặng mùa khô
cháy?
· Nhớ lần mười mấy chàng lính ngồi chiếc xe JEEP 5 chỗ
đi xem đánh bóng về hét ầm ĩ giữa phố. Sai thì ai hay, chỉ thấy vui đáo để một
niềm vui về một chiến thắng trong trận đấu vừa xong – cái thắng của sự nỗ lực
vượt lên chính mình.
· Một chuyện tôi chưa từng thấy ở miền Bắc: Khi đi công
tác với mấy thủ trưởng, gần trưa các thủ trưởng bảo tạt xe ghé vào một nhà dân
chơi. Vào đúng lúc bữa ăn mà không báo trước nên chủ nhà mừng quýnh mời ăn,
nhưng không đủ cơm đãi khách nên chủ nhà vội qua nhà hàng xóm mượn luôn cả nồi
cơm và các thức ăn bên nhà ấy đem về. Mượn cả bữa ăn nhà hàng xóm để về đãi
khách thì tôi chưa thấy bao giờ. Trong bữa ăn thì mới ùn ùn những món khác được
“tiếp tế” từ các nhà hàng xóm vừa hay tin nhà bạn đang có khách ăn cơm gấp!
· Rồi chuyện như anh Cứng lái xe đã dừng chuyến đưa các
thủ trưởng đi công tác để giúp một lái xe khác bị chết máy dọc đường[7]. Rồi những chuyện người lính và thủ trưởng thân nhau
như anh em, con cháu…
Bộ
đội làm kinh tế
· Nhìn cảnh xoong chảo quanh các bếp ăn người lính nông
trường mới thấy chạnh lòng: nuôi quân thời bình mà, đâu nề hà tiêu chuẩn chế độ:
chỉ thấy có gạo thì không thiếu, nhưng còn lại thì thiếu đủ thứ. Thực phẩm kiếm
lấy mà ăn, áo quần thì hà chi nghiêm chỉnh: nghiêm với ai, nghiêm làm chi ở những
xứ đến giọt nước uống cũng phải đánh phèn. Ấy vậy mà tối tối vui ca. Chuyện bác
Ba Phi kể cho nhau cười hoài không hết. Vô tư cởi cái xà lỏn đội lên đầu lội
qua nhà ban chỉ huy xem cái tivi đen trắng chập chờn rồi lại cởi xà lỏn lội lộn
về, để… hết một ngày trong niên hạn đời lính.
· Ai zà, chỉ huy ai và chỉ huy cái gì? Mấy trăm ha hay mấy
chục ha có khác gì nhau. Chỉ là mấy anh lính dưới quyền tự do ra vào vài cái
lán trống hoác cho đủ thứ gió 4 mùa xoay thổi. Giấy bút làm gì cơ chứ, lệnh làm
gì, đội hình, đội ngũ làm gì. Không giống lính, mà chỉ là mấy thanh niên nông
dân sống trong vùng sông nước thì cần chi quân trang, quân phục? Có tình huống
gì đâu mà phải răn đe sự an ninh, an toàn cơ chứ, trên dưới có là gì trong tình
cảnh hàng ngày chỉ mang cái xà lỏn bên nhau?
· Vật tư máy móc làm kinh tế quân đội bỏ giữa nắng giữa mưa
cả năm chỉ vài lần ngó đến. Dẫu mưa dẫu nắng thì những cỗ máy đó đã được đem xuống
cho những ý tưởng bất thành. Thấy xót thương cho người chế tạo, xót cho người
trang bị để bỏ không trong cái vùng không hoạt động gì được này. Chạy mấy vòng
bật đèn bắt chuột cũng có cái cớ để vận hành (không bị bỏ không lâu ngày). Vài
vòng quay lượn của những người không rành lái, nhưng rành lái làm gì ở cái xứ này
– lái đâu mà chả được, làm gì có đường có lối mà lái.
· …
Sơ
sơ mấy chuyện còn nhớ còn vương nhớ trong quãng đời những năm tháng sống ở phương
Nam với vùng đất và con người rất đỗi thân thương. Có lần, một thầy giáo già hỏi
tôi rằng hồi mấy năm đi bộ đội anh có được những gì? Tôi bỗng trả lời ngay rằng
tôi đã có được tất cả những gì tôi có hôm nay!
Ngẫm
lại thấy đúng quá. Khi ra quân chỉ có mấy bộ quần áo, cái xe đạp tự lắp và cái
đồng hồ cũ mua ở Phnom Pênh. Rồi thì hành trang mang theo trong cuộc sống lao động
sau này là những tình cảm của đồng đội và những kỉ niệm vùng đất phương Nam mà
tôi có được một cuộc đời “lưng lửng” một gánh mang theo dùng cho đến nay vẫn
còn cả đống.
[1]
Các ghi chép trong https://lehuuanhghichep.blogspot.com/
[2]
Li cà phê đen bé xíu
[3] Hồi trước 1975, giáo viên các cấp đều được gọi là giáo
sư.
[4]
Cái thời mà Tố Hữu từng viết: “Lụt bắc, lụt nam. Máu đầm
biên giới/Tay chống trời. Tay giữ nước. Căng gân”
[5] Câu “nam nữ thụ thụ bất thân” của Mạnh
tử - Hán tự là 男女授受不亲. Chữ “thụ”
đầu (授)
là “trao, giao” còn chữ “thụ” sau (受) là “nhận lấy”, “thân” (亲) có nghĩa
là “gần gũi”. Câu này có thể hiểu trao và nhận không được đụng chạm thân mật
vào đối phương.
[6] Nay chợ nổi Cái Răng có lẽ cũng sắp tàn
rồi vì ghe tàu của khách du lịch nhiều hơn ghe người bán hàng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét