Thứ Ba, tháng 6 24, 2025

Anh trai tôi – Vị Tộc trưởng đời thứ 10 Phúc Ấm Lê Hữu tộc

 Kính dâng hương hồn Anh – nhân ngày giỗ Anh lần thứ 22

 

1. Thông tin chung

Tại trang phả của cha tôi có ghi rõ ngày sinh, năm sinh của ông Lê Hữu Đồ. Đây là bút tích của ông Lê Hữu Đát viết về cháu đích tôn. Hàng chữ chân phương, thẳng đứng, thể hiện rõ tâm thế của người viết là sự mãn nguyện, tự tin và tràn đầy hy vọng của người ông đối với cháu nội mới sinh. Tên Đồ có thể do ông Đát đặt cho cháu với mong muốn cháu trở thành "ông đồ". Từ năm 1935, ông Đát có thể chưa tưởng tượng được sự thay đổi của xã hội mới sau này, nhưng điều ông muốn đứa cháu sống bằng nghề trí óc thay cho nghề nông là điều ông đã suy nghĩ tổng kết rằng nghề nông không thể là nghề của cháu ông, tức là vị Tộc trưởng tương lai chỉ có thể phát triển và tạo được sự nghiệp bền vững cho Dòng họ bằng nghề phi nông nghiệp, phải bằng lao động trí tuệ.

Tên ông ở trang phả ông Lê Hữu Nhạn Đời Thứ 9

Nguyên văn chữ Nho phần liên quan đến tên của ông: Lê Hữu Đồ, sinh Ất Hợi niên, tam nguyệt thập thất nhật. Dịch nghĩa: Lê Hữu Đồ, sinh ngày 17-3 năm Ất Hợi


2. Phân tích, bổ sung và cập nhật thông tin

2.1 Nhận xét chung

Ông dáng người thư sinh, đeo kính cận, khuôn mặt sáng, ưa nhìn, trán cao thông minh. Tính tình hiền lành, ít nói, khiêm nhường, dễ gây thiện cảm với người tiếp xúc. Ông học giỏi, trong điều kiện học giao thời giữa chữ Hán và chữ Việt, tốt nghiệp cấp 3 năm 1955 và được Chính phủ cử sang Liên Xô học đại học từ 1956.

Ông là vị Tộc trưởng có học vấn cao nhất trong Dòng họ: được đào tạo bài bản ở Liên Xô từ đại học cho đến trình độ tiến sĩ và sau tiến sĩ. Ông công tác tại Bộ Xây dựng từ 1962 cho đến khi về hưu 1997, là Nghiên cứu viên cao cấp, cán bộ quản lý cấp Vụ, Viện nhiều năm ở Bộ Xây dựng.

May mắn thay đổi định mệnh


Vào ngày 19 tháng 12, tôi nhận được giấy báo nhập học của Trường Đại học Nông nghiệp I. Giấy báo yêu cầu có mặt tại trường ngày 15-12 để làm thủ tục nhập học. Tôi rất hoang mang vì khi nhận được giấy báo thì đã quá thời hạn nhập trường, nếu xong thủ tục thì ra nhập học cũng đã chậm cả tuần. Tuy vậy vẫn kiên quyết làm thủ tục để được ra trường sớm nhất, những thứ còn thiếu thì xin bổ sung sau. Tôi lên xã xin xác nhận Giấy báo nhập học về muộn và làm gấp một số thủ tục để chiều Chủ nhật ngày 21-12 ra tàu đi Hà Nội.

Khi đó tôi cũng quen nhiều lần lên xã vì một năm qua được xã gọi đi khám tuyển nghĩa vụ quân sự mấy lần, lại được theo các bạn lên xã liên hoan nhập ngũ mấy lần nên các ông lãnh đạo xã đều biết tôi. Khi tôi đưa giấy báo nhập học để làm thủ tục thì các ông khen tôi giỏi, thi đỗ đại học. Cả xã năm ấy chỉ có 2 người đỗ đại học đều ở làng tôi. Ông Phó Chủ tịch Lê Đình Tụng (phụ trách công an) làm giấy cắt chuyển hộ khẩu cho tôi xong thì nói: “Anh năm ngoái cũng đã có giấy báo đi học Đại học Xây dựng hệ dự bị, nhưng xã quyết định không cử đi vì gia đình anh chưa có người đi nghĩa vụ quân sự. Nay anh đỗ Đại học Nông nghiệp I, xã đồng ý cử đi ngay”. Rồi ông Chủ tịch xã Lê Đình Hử ngồi cạnh đó nói thêm: “Học nông nghiệp đang rất cần cho quê hương, khi học xong có điều kiện phục vụ quê hương thì rất tốt”. Tôi giật mình biết mình đã mất đi một cơ hội thoát li năm trước để nay có được cơ hội này. Nhưng khi đó, quyết tâm là được thoát li, ngành nào cũng được – chứ đâu kịp nghĩ đến thua thiệt gì. Vả lại năm ngoái là đủ điểm học dự bị chứ chưa phải là điểm đỗ chính thức Đại học Xây dựng nên năm nay cũng không thể dùng giấy ấy để ra nhập học được! Một người trong phòng nói thêm ái ngại: “Bé nhỏ như trẻ chăn trâu mà đỗ đại học”! Đó lại là một nỗi lo khác: tôi chắc mới chỉ nặng 30kg, cao chừng 1m50. Ngày mai ra trường đại học mà trong lòng mang theo 2 nỗi lo lớn: một là, hôm nay ngày 20-12 mới chuyển khẩu khi Giấy báo nhập học hết hạn ngày 15-12; hai là, có đủ tiêu chuẩn sức khỏe để được vào học đại học không!

Chủ Nhật, tháng 6 22, 2025

Có một giấc mơ đại học (kì 2)

Một năm “đóng nhiều vai”

Thế là tôi tốt nghiệp phổ thông, về với địa phương để chờ đợi. Chờ gì: đi học thì ít có hi vọng, nhưng đi bộ đội thì nhiều khả năng lắm.

Hồi đó ở làng thanh niên mới lớn đi bộ đội hết, ai đến tuổi còn ở nhà thì cứ như là một nỗi xấu hổ với lương tâm. Có một đơn vị bộ đội ở gần làng tôi tập hợp toàn các anh đào ngũ lại, mỗi sáng tập thể dục đều phải đồng thanh hô lớn: ai cũng như tôi thì mất nước! Nghe vậy lại càng thấy mình đến tuổi mà vẫn ở nhà thì chẳng ra gì…

Từ giữa năm 1974 tôi ở nhà với gia đình với vai nông dân như một lao động thanh niên mới lớn[1] và liên tục được gọi đi khám tuyển nghĩa vụ quân sự. Mỗi lần lại dăm ba thanh niên trong làng trúng tuyển, chỉ mỗi tôi trật lại – chỉ vì tôi vẫn chưa nặng được 30kg. Mấy lần được mời lên xã liên hoan đưa tiễn các bạn: một đĩa bánh nướng, bánh xốp, một ấm chè, bao thuốc, mấy lời phát biểu của cán bộ địa phương nghe đến quen cả giọng điệu…

Khoảng tháng 9-1974, tôi có gặp Nguyễn Chí Thanh và Nguyễn Duy Thuần lên Phúc Ấm chào gia đình ở trọ để đi học đại học[2]. Biết tôi không đỗ đại học, các bạn có vẻ buồn tiếc cho tôi. Tôi chia tay chúc các bạn may mắn học hành, các bạn thì mong tôi có cơ hội được học vì điều kiện học lực của tôi có thể làm được điều đó.

Thứ Sáu, tháng 6 20, 2025

Có một giấc mơ đại học (kì 1)

Còn đó món “nợ đời” chưa trả được

Có một câu hỏi tưởng chừng dễ nhưng lại rất khó trả lời: “Ta chia tay tuổi thơ ở đâu, khi nào?” Tôi cũng đã nghĩ nhiều lần chuyện này và đến nay đành tạm cho là tôi có nhiều lần chia tay tuổi thơ. Chuyện dưới đây là một trong những lần chia tay ấy – chỉ là “một trong” vì có thể còn cái gì đó khác nữa – nhất là về khía cạnh ý nghĩ, tâm thức… Nhưng điều chắc chắn là về mặt hành động thì tôi chia tay với tuổi thơ tôi xảy ra ở LÀNG TÔI – Làng Phúc Ấm[1].

Những năm 1971-1972, chiến tranh ở Việt Nam vô cùng ác liệt. Mỹ đánh phá dự dội miền Bắc bằng B52 hủy diệt. Nhân lực ưu tiên cho cuộc chiến những năm đánh Mỹ lấy đi gần như tất cả sức trẻ các chàng trai mới lớn quê tôi – đi bộ đội là con đường duy nhất cho lũ “trai ngơ” và vào Thanh niên xung phong như một ưu tiên cho bọn “gái cớm”. Ôi cái tuổi 17-18 đẹp như trăng đang tròn, trong trắng thơ ngây bị cuộc chiến hút hết vào chốn đạn bom khói lửa!

Nói thật, đi bộ đội không hẳn là một mơ ước của tôi – cũng như rất nhiều người khác – nhưng với những gì tôi nhận thức được lúc bấy giờ thì đi bộ đội như một tất yếu trách nhiệm. Quê Thanh Hóa của tôi khi ấy động viên từ 17 tuổi cho nên có hàng nghìn học sinh chưa tốt nghiệp cấp III xếp sách vở lên đường đi chiến trường.

Thứ Bảy, tháng 6 14, 2025

Nhân được đọc bài thơ “Ngủ chung”

Chuyện “ngủ riêng lâu rồi ông ơi”

Trong một chuyến du lịch nước ngoài, chúng tôi được đến một điểm du lịch nổi tiếng – là điểm đến mơ ước của rất nhiều người trong đời. Sáng dậy tôi hỏi vui anh bạn thân: Tối qua vợ chồng có “đánh dấu” kỉ niệm gì ở đây không vậy? Anh bạn nói nhỏ: Đi du lịch thì xếp ngủ chung phòng thôi chứ ở nhà ngủ riêng lâu rồi ông ơi. Tôi tự nhủ: thôi xong, họ đã không ngủ chung nữa rồi!

Chuyện “lí do ngáy to như sấm”

Một cô bạn vợ tôi nói đã bắt đầu cho “ông lão” 60 tuổi lên ngủ tầng 3, còn mình thì chiếm cứ phòng master ông bà đã ngủ chung bên nhau tầng 2. Thế là lại có một đôi không muốn ngủ chung. Tôi bảo vợ tôi là vì sao bạn ấy lại cho chồng “lên tầng” khi cả 2 mới vào độ tuổi 60? Vợ tôi bảo cô ấy nói ông ta ngủ ngáy như sấm ai mà chịu được! Ái chà, thì ra là có “lí do ngáy to như sấm”.

Có một ông tôi biết rất rõ – vốn dĩ cùng cơ quan, có nhiều lần đi công tác với nhau – thì nổi tiếng ngáy to, không ai dám ngủ chung phòng, thậm chí còn không muốn ở gần phòng của ông luôn. Khi chúng tôi hỏi vợ ông ta là làm sao bà chịu được khi hàng ngày ông bà ngủ với nhau. Bà ấy tỉnh queo trả lời: Ông ấy đi công tác là tôi không ngủ được vì ngủ chung với ông ấy nhiều năm nên nay nghiện tiếng ngáy ấy rồi! Lại một thái độ chuyện “lí do ngáy to như sấm”.

Ngủ chung rồi ngủ riêng, chuyện “thâm cung bí sử” từng nhà. Nghe dzậy chắc gì đã dzậy! Có lẽ mỗi nhà, mỗi người đều có cái rất riêng mang tính “đặc sản” của mỗi nhà, mỗi người.

Nhà tôi thì cũng có những chuyện quanh cái món ngủ chung – ngủ riêng, thậm chí cũng có khi “hội thảo” hẳn hoi. Mà tôi thích nhất món “hội thảo” vì xưa nay có vô vàn “hội thảo”, tranh cãi đủ mọi thứ trên đời nhưng chưa có hội thảo nào rút ra được một kết luận. Vì vốn dĩ “hội thảo” là không có kết luận dứt khoát nên món ngủ chung – ngủ riêng ở nhà tôi cho đến nay cũng chỉ mới dừng ở mức có thể tham khảo khi cần thiết!

Tôi vừa được đọc một tác phẩm “để đời” – bài thơ Ngủ chung – tác giả là một người thân của bạn tôi. Tôi rất thấm thía cái đơn giản mà thầm kín, vừa dí dỏm lại thâm thúy của bài thơ này. Khoái nhất là hai câu kết – thời tiết thì bản tính thay đổi: có nắng mưa, có bão gió, có lạnh, có nóng… mà cái thay đổi còn dữ dội gấp bội ở “thời tiết” buồng ngủ, thế mà vẫn cứ “kiên trì ngủ chung” mới là kết luận giá trị.


Bài thơ của tác giả T.H.B

Tôi ước gì mọi người đến cái tuổi tranh luận ngủ chung – ngủ riêng thì cứ tạm dừng ở dạng kết quả “hội thảo” chứ đừng vội đưa ra kết luận gì sớm!

 

Thứ Bảy, tháng 6 07, 2025

Một trải nghiệm London thú vị

 

Đến thăm Anh quốc nhân chuyến đi du lịch kết hợp nghỉ ngơi gia đình, chúng tôi có được nhiều trải nghiệm quý giá. Riêng London, ngoài những điểm check-in nổi tiếng của Hoàng gia còn đi du thuyền sông Theme qua nhiều cây cầu, trải nghiệm tàu điện ngầm, bus Hop-on Hop-off… Đặc biệt hơn là còn được trải nghiệm "two legs on the boundary of two meridians at the Greenwich Observatory"[1], tận mắt thấy dòng người thực xếp hàng vào sân ga 93/4 (ga Chín và Ba phần tư) của phù thủy Hogwarts[2], đến ngôi nhà Newton từng sống[3] và nghĩa trang Heritage phía Tây London[4].

Tôi có một cảm giác rất lạ khi nhìn vào ngôi nhà 87 Jermyn St, London SW1Y 6JD. Mà Newton từng sống ở đó đầu Thế kỉ 18. Thầm nghĩ giá thế giới này không có Newton thì ngày nay loài người nhận thức thế giới và vũ trụ thế nào khi không có các định luật về vật lí học, thiên văn học do ông tìm ra. Từng được phong hiệp sĩ (sir) năm 1705, là nghị sĩ Hạ viện Anh 1689-1690[5] nhưng bộ não như Newton sao vẫn “sa vào cõi được thua” trên thị trường chứng khoán. Mà nghĩ lại nếu ông không “chơi chứng khoán” hồi đó thì làm sao giới tài chính có được câu nói nổi tiếng mọi thời đạiTôi có thể tính toán được chuyển động của các vì sao, nhưng không thể nào hiểu được sự điên rồ (madness) của loài người.[6]?

Sir Isaac Newton từng sống đầu Thế kỉ 18 tại  đây
(nay
là 87 Jermyn St, London SW1Y 6JD)

Thứ Ba, tháng 6 03, 2025

Cha tôi – vị Tộc trưởng đời thứ 9 của Phúc Ấm Lê Hữu tộc (kì 4)

 Nhân ngày giỗ thứ 33 và năm sinh thứ 120 của cha tôi (Các tư liệu được trích tại Phúc Ấm Lê Hữu tộc tôi viết 2021)

 

6. Một số chuyện đáng nhớ

6.1 Chuyện ông đi đón dâu

Khi chịu tang bố, mẹ và vợ xong, qua mối lái[1] ông cưới bà Lê Thị Mỹ ở làng Bì, Cổ Định. Hôm đoàn đón dâu đến cây đa đầu làng Bì thì bị dân làng chặn lại và được yêu cầu trả lời một vế đối[2], nếu không đối lại được thì không cho vào làng đón dâu. Đây là tục có tính văn hóa có từ lâu ở quê. Làng Bì thuộc Cổ Định là làng cổ có từ thời Hùng Vương, Cổ Định có tới 24 tiến sĩ làm quan Triều đình, nổi tiếng là đất học xứ Thanh (xem thêm bài Làng Phúc Ấm). Vế đối ra là: "Cây đa làng Bì". Cái khó ở đây là kiểu chơi chữ khá oái ăm: "Bì" có nghĩa là da, tiếng địa phương gọi da là "đa" lại trùng tên cây đa - nơi cả đoàn đang đứng dưới bóng cây. Đoàn đón dâu không ai đối được, xin khất thì không cho nên bèn cử một người khỏe chạy về xin ý kiến các vị có học. Lúc này đã gần trưa mà đường thì xa (hai làng cách nhau khoảng 8 km). Người chạy về đến làng gặp được một số vị có học để xin ý kiến. May thay có ông anh rể họ[3] (là ông Nguyễn Hữu Quế, cha của ông Viên) giỏi chữ Hán nghĩ ngay ra vế đối và nói để người đó chạy vào xin dâu. Khi vào đến nơi đã quá trưa, đoàn đón dâu ngồi đợi dưới gốc đa mừng quá gọi làng ra nhận vế đối. Khi nghe vế đối: "Cái bụng xóm Phúc" người làng Bì đã vui vẻ chấp nhận ngay và khen vế đối chuẩn cả về thanh lẫn nghĩa đen, nghĩa chữ. Số là chữ Phúc () còn có nghĩa () là bụng. "Bì" đối với "Phúc": da đối với bụng (ruột), làng Bì mà đối với xóm Phúc là da đã bao được bụng, làng trùm lên xóm thì đã chuẩn mọi nhẽ. Cả hai họ hoan hỉ đón cô dâu từ làng "Bì - da" về xóm "Phúc - bụng" với điều bất ngờ thú vị của cả người đối, người trả lời như một câu chuyện nhân văn đáng nhớ trong cả hai làng. Nay ông Viên là người chứng kiến vẫn đang ở xóm Phúc còn luôn nhớ và kể chuyện này.

Cha tôi – vị Tộc trưởng đời thứ 9 của Phúc Ấm Lê Hữu tộc (kì 3)

 Nhân ngày giỗ thứ 33 và năm sinh thứ 120 của cha tôi (Các tư liệu được trích tại Phúc Ấm Lê Hữu tộc tôi viết 2021)


5. Giá trị di sản

5.1 Chứng kiến sự suy tàn và có tầm nhìn bảo tồn giá trị

Bối cảnh quê hương và sự tàn phá của văn hóa đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến gia đình và Dòng họ. Việc duy trì và gìn giữ được những gì còn lại trước những phá phách nghiêm trọng khi đó ở quê thật là một điều thần kỳ may mắn nhờ số phận và tâm niệm ý thức.

- Các tác động trực tiếp: gia đình bị quy là địa chủ trong Cải cách ruộng đất và bị đấu tố tinh thần, sau sửa sai thành trung nông (lớp trên). Phải triệt phá đồ thờ[1] trong nhà để không bị tiếng lạc hậu, mê tín trong chính sách cải tạo xã hội cũ, xây dựng đời sống mới. Điều đặc biệt quan trọng là đã truyền được ý niệm, niềm tin cho con cháu qua khơi gợi ý thức, khuyến khích học hành, truyền khẩu các câu chuyện quan trọng.

Nhờ khéo léo và may mắn, việc đối xử của Tộc trưởng trong giai đoạn đó vẫn giữ được các giá trị đặc biệt: Từ đường Dòng họ với các kiến trúc cũ từ 1917 (tu tạo 1929 và 1937)[2]; Khu mộ gia đình và một số bia mộ quan trọng; Giữ được gia phả và một số chứng tích từ các đời trước để lại. Có thể nói cả đời ông chống chọi sự phá hoại, ngăn cản các mất mát và tìm cách lưu truyền các giá trị.

Cha tôi – vị Tộc trưởng đời thứ 9 của Phúc Ấm Lê Hữu tộc (kì 2)

 Nhân ngày giỗ thứ 33 và năm sinh thứ 120 của cha tôi (Các tư liệu được trích tại Phúc Ấm Lê Hữu tộc tôi viết 2021)


4. Vai trò phát triển gia đình, Dòng họ

4.1 Quan hệ và nhận thức xã hội

Ông là người kiên cường, bền bỉ vượt qua Thế kỷ XX đầy biến cố đau thương. Các đóng góp của ông đối với địa phương và cộng đồng cũng chỉ như mọi người khác lúc bấy giờ là chịu đựng gian khó, tích cực tham gia các hoạt động địa phương, đi dân công, góp ruộng đất, trâu bò vào HTX. Tuy nhiên, ông đã biết vươn lên tích cực học hỏi, tích lũy kiến, thức tìm ra con đường tự giải quyết các vấn đề cho gia đình và Dòng họ.

Ông một mặt gìn giữ, kế thừa truyền thống gia đình, Dòng họ nhưng mặt khác chống mê tín dị đoan (bói toán, lên đồng...), tích cực hưởng ứng trào lưu sống mới, tiến bộ. Những năm 1936-1938 ông đã đi đầu trong phong trào cắt bỏ búi tóc[1]. Sau năm 1950 ông sớm biết thực hành lối sống vệ sinh: ngủ có màn, nhà có tủ gạc-măng-giê (garde manger – tủ chạn bát đựng thức ăn), thực hành ăn chín uống sôi...

Bằng những may mắn và khôn khéo, ông đã tránh được những "trận đấu tố" đau thương, đã đấu tranh kiên trì và hợp lý để được sửa sai thành phần gia đình[2] trong Cải cách ruộng đất từ địa chủ (loại 3) thành phú nông, rồi thành trung nông lớp trên để bảo đảm "sự trong sạch" chính trị cho gia đình và là con đường phát triển cho con cái.

Cha tôi – vị Tộc trưởng đời thứ 9 của Phúc Ấm Lê Hữu tộc (kì 1)

Nhân ngày giỗ thứ 33 và năm sinh thứ 120 của cha tôi (Các tư liệu được trích tại Phúc Ấm Lê Hữu tộc tôi viết 2021)


1. Thông tin trang phả

1.1 Nguyên văn

Ảnh chụp trang phả Phúc Ấm Lê Hữu tộc
Bản viết năm 1939

1.2 Dịch nghĩa

Vị Tộc trưởng Đời Thứ 9 là Lê Hữu Nhạn, sinh năm Ất Tỵ.

Vợ tên là Lê Thị Chi, sinh năm Kỷ Dậu, giỗ 6-Giêng.

Con trai: Lê Hữu Đồ, sinh ngày 17-3 năm Ất Hợi.

Vợ thứ là Lê Thị Mỡi.

Chủ Nhật, tháng 5 25, 2025

Nhìn lại những năm tháng quân ngũ

  

“Có lần, một thầy giáo già hỏi tôi rằng hồi mấy năm đi bộ đội anh có được những gì? Tôi bỗng trả lời ngay rằng nhờ những năm tháng đó mà tôi đã có được tất cả những gì tôi có hôm nay”!


Nhìn lại những năm tháng quân ngũ ở Quân khu 9, các chuyến đi công tác đến các đơn vị quân đội làm kinh tế, các giao tiếp và sinh hoạt với xã hội và người dân phương Nam, tôi thấy có quá nhiều điểm lí thú. Có thể tạm tổng quát lại thành 4 điểm chính: Một là, tôi được thỏa cái nguyện đi-lại (xê-dịch) của tuổi trẻ: mỗi lần xách cái ba lô ra khỏi doanh trại như một dịp được biến thành cánh chim tự do khám phá, ngắm nhìn những điều mới lạ để nhận biết, cảm thụ và từ các trải nghiệm tích tụ thành chiêm nghiệm. Hai là, được đến với miền đất trù phú, phì nhiêu, hào phóng của thiên nhiên và sự hào sảng của con người sinh ra trên miền đất ấy. Chính sự hào phóng của thiên nhiên đã tạo nên con người hào sảng xứ này. Ba là, thấy bao nhiêu điều lạ, điều chưa từng được biết kích thích sự tò mò, ham hiểu biết và Bốn là, thấy rõ thực chất làm kinh tế của quân đội (như một số ghi chép tôi trong blog[1]).

Tạm gọi đó là những tổng quát nho nhỏ của những năm tôi ở đây, nhưng trong li ti cuộc sống có vô vàn các chi tiết đáng nhớ, đáng yêu…

Thứ Tư, tháng 5 21, 2025

Chia tay một thuở


Gọi là một thuở với Trần Hữu Giang – Lê Hữu Ảnh – Lê Cao Bính, nhưng là tới gần hết 9 năm trời. Một thuở trẻ trai ngờ ngệch!

Vào những tháng của mùa thu 1984, chúng tôi xuất ngũ nhận công tác ở những miền đất mới. Cũng từ đó, chúng tôi thực sự chia tay cái thuở “chung sống” cùng nhau. Riêng tôi nghĩ, sự chia tay đó tất yếu phải đến. Việc chia tay đó là duyên phận một thời và rất may là lại chưa thể “hết duyên” với nhau.

Rõ ràng thời cuộc tạo ra duyên phận của chúng tôi. Tôi đã dành hẳn một chuyên mục dài (Page: Thời cuộc và duyên phận với các Label dự định viết 6 mục lớn[1]). Sau khi đã viết được vài chục bài lại thấy rằng: thật khó để tách một sự kiện nào đó trong 9 năm ra khỏi chúng tôi vì hình như chúng tôi đều có mặt tham dự hoặc chứng kiến. Nhưng cái lạ là sau khi đã “mỗi người mỗi ngả” thì vẫn có rất nhiều sự kiện lại vẫn như đang có cùng nhau! Tại sao vậy? Đó là câu hỏi cần tiếp tục lí giải thêm, hay cái duyên vẫn đang cùng nhau trong mỗi biến đổi thời cuộc?

Thứ Ba, tháng 5 20, 2025

Xuất ngũ về Bắc (kì 3)

Bài học nhớ đời ngày muốn trở thành công dân Hà Nội


Tôi từ giã phương Nam ngày 23-9-1984 sau khi cả Bính và Giang đã xuất ngũ trước tôi. Sở dĩ tôi nán lại chút cũng là cố chia tay với bạn bè, người quen vì biết rằng mình sẽ còn rất lâu nữa mới có điều kiện quay trở lại[1]. Dù sao thì gần 4 năm ở Cần Thơ (chính xác hơn là 3 năm 6 tháng – đến Cần Thơ ngày 23-3-1981) nên tôi cũng có nhiều người quen, nhiều kỉ niệm khó quên. Có những người tôi phải mấy lần “nâng chén chia tay” mới thật sự từ giã như gia đình cô Hòa – thầy Liễn, ông Chước, bạn bè cùng quê… Những ngày này tôi đã bán đi đôi vành xe thồ Nhật Bản đổi lấy đôi vành xe “inox Chợ Lớn” và uốn thẳng cái ghi đông, lắp thêm cái đèo hàng cho cái xe đạp của mình. Số tiền dư được nhờ bán đôi vành xe đạp được góp thêm chút cho mấy buổi liên hoan chia tay…

Tôi hí hửng về quê nghỉ ngơi rồi nhanh chóng ra Hà Nội lo công việc. Khi xuất ngũ tôi đã xin thêm giấy đi phép tháng 9 và tháng 10 từ QK9, lại làm tạm trú tại quê từ tháng 11 và 12 để tính chuyện được cấp lương thực theo Giấy cắt chuyển Lương thực từ QK9[2]. Tôi tính định tìm nơi có thể xin việc rồi mới qua Trường Đại học Nông nghiệp I làm thủ tục vì còn ý định khi đó chuyển về trường chỉ là để lấy giấy phân công công tác từ trường đến các cơ quan khác (nếu mình liên hệ được nơi nhận công tác).

Thứ Hai, tháng 5 19, 2025

Xuất ngũ về Bắc (kì 2)

Thủ tục ra quân, chuyển ngành

Tôi trở vào Nam khoảng giữa tháng 7-1984 để làm thủ tục xuất ngũ. Lúc này nhiều người đã chuyển ngành sang công tác bên dân sự. Giang đã xin được công việc ở Cần Thơ, Bính cũng đã có được giấy tiếp nhận ở Ty Nông nghiệp Nghệ Tĩnh.

Tôi cũng bắt đầu bớt băn khoăn là làm thủ tục theo giấy tiếp nhận của tỉnh Thanh Hóa hay theo giấy tiếp nhận của Trường Đại học Nông nghiệp I. Nếu về Thanh Hóa thì khó có cơ hội phát triển chuyên môn sau này. Tôi cũng đã bàn với một số anh em ý định của mình trước khi gửi giấy đi làm thủ tục. Giang thì không nói gì nhưng Bính cũng cho rằng tôi cứ ra trường làm thủ tục giảng viên trước, sau đó thấy không hợp lí thì chuyển sau qua chỉ tiêu của trường hoặc không thích làm giảng viên thì ở phòng ban nào đó cũng được để có thể có hộ khẩu ở Hà Nội trước. Còn sau này muốn về Thanh Hóa thì từ hộ khẩu Hà Nội rồi chuyển sẽ không khó gì, nhưng ngược lại từ Thanh Hóa sẽ khó có cơ hội chuyển ra Hà Nội được. Cuối cùng thì tôi đã nộp giấy tiếp nhận của Trường Đại học Nông nghiệp I, nhưng trong thâm tâm cũng nghĩ mình khó có thể trở thành giảng viên đại học lâu dài.

Xuất ngũ về Bắc (kì 1)


Chúng tôi vào bộ đội năm 1980 với cả mấy ngàn sinh viên tốt nghiệp các trường Đại học – ai cũng tưởng rồi cả đời quân ngũ! Tình hình những năm thập kỉ 1980s ấy có nhiều biến động. Luật Sĩ quan 1981 và quá trình “giải trừ quân bị” bắt đầu được cụ thể hóa bằng hàng loạt các đơn vị kinh tế quân đội giải thể hoặc chuyển sang dân sự. Các kĩ sư-hạ sĩ quan cuối từ 1982 đã lần lượt xuất ngũ, chuyển ngành. Việc xuất ngũ của nhóm kĩ sư-sĩ quan từ 1983 đã rõ dần. Từ đấy, trong chúng tôi ai cũng chuẩn bị cho mình một phương án nghề nghiệp sau khi giải ngũ.

Như đã ghi chép trong các lần đi phép ra Bắc[1], khi tôi đi phép năm 1983 đã gần như rõ hướng chuyển ngành ra Bắc. Tuy vậy, năm 1983 cũng là thời gian có nhiều cân nhắc khá gay cấn về chuyện ra Bắc công tác vì nó liên quan đến quyết định tiếp tục phát triển hay chia tay với bạn gái nữ sinh Đại học Cần Thơ. Tôi cũng rất thích thành phố Cần Thơ bé nhỏ, thơ mộng lại rất nhiều kỉ niệm. Nếu có được công việc ở đây và sẽ tiếp tục tình bạn thân thiết với người mình muốn cũng là một lựa chọn đáng được ưu tiên. Tại đây, tôi quen một anh chị[2] cùng quê công tác ở Công ty nông sản Hậu Giang (thuộc đơn vị của Tổng Công ty Nông sản miền Nam). Anh chị ấy có gợi ý tôi chuyển về đây làm việc và anh cũng đưa tôi cũng đi gặp vài nhân vật quan trọng. Nếu chấp nhận công việc ở đơn vị thu mua hoặc bảo quản chế biến thì có thể người ta giải quyết được. Tuy nhiên, hoàn cảnh gia đình và một số băn khoăn công việc nên tôi chưa thể có quyết định rõ ràng.

Thứ Hai, tháng 5 12, 2025

Chiếc xe đạp đầu tiên của tôi

  

Năm cuối năm 1983, tôi có chiếc xe đạp đầu tiên. Có lẽ cũng thời chúng tôi mới có những “câu chuyện đầu tiên” về những gì mình có được để nhớ. Sở dĩ có cái để nhớ đời vì chúng có quá trình tích góp của toan tính và có sự chung tay giúp đỡ của nhiều người. Mà cũng phải đến năm 26 tuổi, phải gần 4 năm đi làm tôi mới có được điều mơ ước nhỏ nhoi này.

Năm đó nhiều người trong đơn vị đã có chiếc xe đạp riêng. Ba chúng tôi cùng phòng thì Giang có xe đạp sớm nhất: một chiếc xe nguyên hiệu của một hãng nào đó - hình như tên xe là Cửu Long (?). Sau đó Bính cũng sắm được một chiếc, bằng cách mua khung xe của QK7, rồi ra khu phố “chợ giời” Cần Thơ mua phụ tùng lắp. Nhìn chung 3 anh em có 2 xe thì cũng đủ đi lại. Tôi cũng thường mượn xe để vào kí túc xá ĐH Cần Thơ chơi với các bạn nữ sinh nhiều lần.

Thế rồi tôi cũng có ý định “dựng” cho mình một chiếc xe đạp. Tôi nhờ anh Quất mua cho tôi cái khung xe QK7 sản xuất mang từ Sài Gòn xuống trong một chuyến anh đi công tác QK9. Rồi một lần Cục Hậu cần “duyệt bán nội bộ” một số vành xe đạp thồ Nhật Bản, tôi nói anh Quất làm giấy xin mua và đã được phê duyệt từ ông Cục phó Nguyễn Nhật Quang[1]. Giấy được kí duyệt thì anh về Sài Gòn, tôi giúp anh làm các thủ tục lấy đôi vành xe đắt tiền giữ hộ anh. Lần về phép năm 1983, tôi xin anh trai tôi cái ghi đông và potang (cổ) xe đạp thể thao Liên Xô (anh mua khi đi Liên Xô về năm 1981) nhưng về Việt Nam thì anh đổi sang ghi đông thường để đi hàng ngày. Lúc này em trai đi lao động ở Tiệp Khắc cũng đã gửi được một số phụ tùng, tôi có một xích, một líp và một đôi pedan xe của Tiệp Khắc.

Thứ Bảy, tháng 5 10, 2025

Tình cảm đồng đội qua những lần dự cưới

 

Được dự các đám cưới[1] của những người bạn lính là sự vinh dự biết bao, nhất là khi mình còn đang mang áo lính. Tuy nhiên, cả khi đã thôi áo lính mà vẫn được dự các đám cưới của người bạn lính cũng vẫn thật sự vinh hạnh và đáng nhớ.

Dự cưới anh Lê Ngọc Lan và chị Lê Thị Dính

Vào dịp sát đến Tết năm 1981, đơn vị cho chúng tôi biết việc từng người được phân công đến các đơn vị, quân khu cụ thể. Đa số chúng tôi được cử đến các Quân khu phía Nam. Trung đoàn huấn luyện 826 đã có quyết định cho bộ đội về phép nghỉ Tết trước khi đi Nam (như tôi đã viết trong mục Những ngày đầu quân ngũ và Dọc đường vào Nam).

Thứ Hai, tháng 5 05, 2025

Ba lần đi phép ra Bắc


Trong 4 năm ở bộ đội, tôi có 3 lần đi phép ra Bắc theo chế độ như mọi người khác. Hồi đó cơ bản đơn vị thì không có việc gì nhiều, đi về bằng tàu xe lại rất khó khăn nên mỗi lần đi phép có khi thời gian ghi trên giấy phép và các chế độ[1] cắt theo phép ít nhất 45 ngày (một tháng rưỡi). Quy định đi lại qua đường giao liên, khi có giấy nghỉ phép thì người đi phép đem giấy đến các đơn vị Trạm khách (kí hiệu các T như T80, T82…) để đăng kí, các Trạm khách chờ thủ tục tàu xe để xếp cho từng nhóm đi. Khó nhất là chờ tàu hỏa vì mỗi đoàn tàu thống nhất chỉ có vài toa dành quân sự mà quân đội nên có khi phải chờ cả tháng. Ở các tỉnh ngoài Bắc khi trở vào lại càng khó vì họ cũng phải đăng kí trả phép qua các T80 của Tỉnh đội, mà khách đi vào luôn có hiện tượng nhiều hơn so với đi ra nên việc phải chờ hàng tháng kể từ khi đăng kí là chuyện thường. Thành thử mỗi lần đi phép cứ ít ra phải vài tháng mới trở về đơn vị được.

Thứ Sáu, tháng 5 02, 2025

Tình cảnh cuộc sống người lính sau chiến tranh


Những năm tôi ở quân ngũ tại QK9 là những năm chỉ còn lại những tranh chấp biên giới phía Bắc và những trận đánh tàn quân Polpot ở nước bạn Campuchia, tức là những năm tháng của thời bình. Nhưng cuộc chiến đấu mấy mươi năm của đất nước với kẻ thù, quê hương Việt Nam vô cùng kiệt quệ và nghèo đói. Thế hệ chúng tôi có một tuổi thơ đói nghèo và bom đạn. Cái đói, cái nghèo theo mãi cuộc sống mỗi người trong những ngày tháng chiến tranh, trong những ngày đã im tiếng súng ở mỗi cán bộ chiến sĩ và nhân dân trong những ngày chúng tôi là người lính trong QK9.

Dưới đây là một số ghi chép của tôi từ những chuyện tôi chứng kiến hoặc tôi nghe kể từ những người trong chúng tôi hồi đó.

Đối với đội ngũ sĩ quan trung-cao cấp (từ đại úy trở lên) ở QK9 hồi đó, chúng tôi thấy dù họ sống xa vợ con thì cũng đều được phân nhà công vụ trong các khu gia binh sĩ quan. Một số cán bộ cao cấp (cấp tướng) còn được phân nhà từ các căn hộ của quan chức chính quyền cũ (bị tịch thu hoặc đã ra nước ngoài). Với những cán bộ lãnh đạo Cục Kinh tế và Cục Hậu cần những năm 1980-1984 ở QK9, tôi thấy tuy họ có được những không gian riêng tư nhất định nhưng trong cái khó khăn chung của đất nước, họ cũng không có gì gọi là khá giả về đẳng cấp cuộc sống. Những trường hợp tôi đã đến tận nhà các ông Cục phó Nguyễn Nhật Quang, Trần Kì Vân, Nguyễn Hữu Chước, các ông được phân một gian nhà cấp 4 trong những căn hộ gia binh sĩ quan. Ngoài lương, họ có điều kiện tăng gia cải thiện cuộc sống như nuôi heo, nuôi gà như tôi đã có nêu trong những ghi chép trước.

Thứ Năm, tháng 4 24, 2025

Vài chuyến đi công tác ngắn ngày khác

 

Từ khi về Phòng Sản xuất Cục Hậu cần QK9, chúng tôi được tham gia vào các hoạt động kinh tế khác như mua bán vật tư, máy móc, thiết bị… Nhờ đó tôi có được một số chuyến đi công tác ngắn ngày. Tôi còn nhớ đôi chút về các chuyến đi này.

Chuyến đi giao tiền tại Thành phố Hồ Chí Minh: Lần ấy, Phòng Sản xuất có việc gì đó liên quan đến thanh toán bằng tiền mặt tại một Ngân hàng xuất nhập khẩu tại Thành phố HCM. Công việc này liên quan đến trợ lí tài vụ Lê Cao Bính, nhưng ông Chước nghĩ nên cử thêm người đi để bảo đảm an toàn, và thế là tôi được cử đi theo. Tôi nhớ một xe tải có thùng rộng được đánh đến Phòng Tài vụ, mọi người vác mấy bao đựng tiền lên thùng xe. Trong cabin có lái xe và anh Nguyễn Ngọc Lâm (người của Phòng Sản xuất cũ). Tôi và Bính ngồi trên các bao tiền ở thùng xe không mui. Lần ấy có ai đó đã giao cho tôi kí nhận mang theo một khẩu súng K54 không có đạn, chắc ý là để tăng thêm sự an toàn.

Thứ Tư, tháng 4 23, 2025

Một kỉ niệm về chuyến đi

 

Anh hướng dẫn viên ấy người Trung Quốc, nói tiếng Việt giỏi, tôi chỉ nhớ tên gọi tắt là A Cương, không nhớ họ của anh.

Trong hành trình đi du lịch mấy chục nước khắp 5 châu, tôi chỉ thấy một chuyến đi Nga và một số chuyến đi Trung Quốc có hướng dẫn viên bản địa biết tiếng Việt Nam. Khi gặp được người hướng dẫn biết nói tiếng Việt Nam thì du khách vui lắm vì sẽ hiểu được rất nhiều tri thức tại điểm đến bằng tiếng mẹ đẻ.


Anh A Cương giỏi tiếng Việt và có lẽ anh đã từng nhiều lần đến Việt Nam nên chúng tôi trao đổi các tri thức về văn hóa 2 nước rất thuận lợi, tạo điều kiện hiểu biết nhiều hơn. Tại khu vực đập Tam Hiệp (tỉnh Hồ Bắc), chúng tôi không chỉ biết đây là con đập lớn nhất thế giới mà còn biết thêm nhiều về công nghệ xây đập hiện đại trên sông Dương Tử - con sông dài thứ 3 thế giới. Sông này thời Tam Quốc nổi tiếng có trận Xích Bích (nay ở Nhạc Dương, cách đập Tam Hiệp gần 300km). Đến Nghi Xương còn biết đây là quê hương của Vương Chiêu Quân (1 trong 4 tứ đại mĩ nhân của Trung Quốc), đây là quê hương của nhà thơ Khuất Nguyên… Qua Hồ Nam biết đây là quê hương của Mao Trạch Đông, 3 trong số 10 nguyên soái (Bành Đức Hoài, Hạ Long, La Vinh Hoàn), 6 trong số 10 đại tướng… thời Mao Chủ tịch. Vào Trương Gia Giới còn như được thấy hồn Trương Tử Phòng (một trong “Hán sơ tam kiệt” giúp Lưu Bang dựng nên nghiệp đế nhà Hán) đọng lại trong các khu thạch lâm… Đến với trấn cổ Phượng Hoàng thấy hồn Thúy Thúy còn lảng bảng trong chuyện tình buồn. Rồi chuyện người dân tộc Thổ Gia ở Trương Gia Giới, dân tộc Miêu ở Phượng Hoàng cổ trấn… Quá nhiều câu chuyện vừa thực - vừa hư, nửa truyền thuyết - nửa hiện thực trong một chuyến đi được hướng dẫn viên tận tình chia sẻ.

Tôi không có nhiều thời gian để trao đổi với anh vì anh bận rộn, nhưng cũng có vài trao đổi để anh biết người Việt Nam chúng tôi có liên quan đến 3 chuyện của người Trung Quốc.

Một là nơi tôn thờ sự học hành đều nhắc đến thầy Khổng Khâu (thời Xuân Thu, Trung Quốc). Các Văn Miếu ở Việt Nam đều thờ Thầy Chu Văn An và Thầy Khổng Tử, cả 2 được coi là “vạn thế sư biểu” (người thầy của muôn đời).

Hai là Tết Đoan Ngọ (5-5 âm lịch) ở Trung Quốc liên quan đến Khuất Nguyên trầm mình trên sông Mịch La và câu chuyện đua thuyền rồng, ăn bánh ú thì ở Việt Nam chúng tôi cũng có Tết Đoan Ngọ (5-5 âm lịch) nhưng theo ý nghĩa phồn thực và văn hóa Việt Nam: cơm mới, giết sâu bọ.

Ba là, Tết Hàn Thực (3-3 âm lịch) ở Trung Quốc liên quan đến cái chết cháy đau thương trong rừng của mẹ con Giới Tử Thôi[1]. Người dân nhớ người “trượng nghĩa” đã chỉ ăn bánh nguội (hàn thực – ăn đồ nguội) trong 3 ngày không đốt lửa. Người Việt Nam chúng tôi ăn bánh trôi, bánh chay trong ngày 3-3 theo nghĩa “thủy đoàn” và cũng là lễ cúng gia tiên nhân tiết Thanh Minh.

Thế đấy, du lịch là cuộc du chơi của những người thanh lịch, lịch thiệp, lịch sự, được nghe được thấy những điều lịch duyệt, lịch lãm… Đúng là chúng tôi được một chuyến đi du lịch khá đúng nghĩa.

Lại liên hệ đến chuyến đi Trịnh Châu – Khai Phong – Lạc Dương – Thiếu Lâm Tự - Long Môn – Tây An – Mộ Tần Thủy Hoàng, Binh Mã Dũng… năm trước, thấy có nhiều đoàn đến từ Việt Nam mà rất tiếc không có hướng dẫn viên bản địa biết tiếng Việt mới thấy giá trị và may mắn khi có được người hướng dẫn bản địa biết tiếng Việt giỏi như anh A Cương.

Chúng tôi biết ơn anh nhiều. Chỉ tiếc là khi phải ra cửa an ninh vội vàng quá mà không kịp bắt tay tạm biệt anh (vì anh còn mải lo chuyện an ninh cho cả chuyến đi của chúng tôi).



[1] Đời Xuân Thu, vua Tấn Văn Công  gặp loạn phải bỏ nước lưu vong, gặp được một hiền sĩ tên là Giới Tử Thôi theo giúp. Về sau, Tấn Văn Công trở về làm vua lại quên mất Giới Tử Thôi. Giới Tử Thôi không oán giận gì, về nhà đưa mẹ vào núi ở ẩn. Tấn Văn Công nhớ ra, cho người đi tìm. Vì Giới Tử Thôi không chịu ra lĩnh thưởng, Tấn Văn Công hạ lệnh đốt rừng để ép ông phải ra; cuối cùng, hai mẹ con ông đều chết cháy. Vua thương xót, lập miếu thờ và hạ lệnh kiêng đốt lửa ba ngày, chỉ ăn đồ ăn nguội đã nấu sẵn để tưởng niệm.

Thêm một chuyến đi vui vẻ


 

Chúng tôi vừa trở về sau một chuyến du lịch ngắn ngày đi Hồ Bắc – Hồ Nam, Trung Quốc: Nghi Xương – Trương Gia Giới – Phượng Hoàng cổ trấn. Cả đoàn đều rất hoan hỉ vì có được chuyến đi lí thú.

Thành công trong chuyến đi liên quan đến một hành trình tour được thiết kế đặc sắc, được tổ chức chuyên nghiệp và có được các hướng dẫn viên tốt. Ghi chép này tôi muốn nói đến hướng dẫn viên Việt Nam: cô Đặng Thị Minh Thu, một bài viết khác tôi sẽ viết về hướng dẫn viên người Trung Quốc: A Cương.


Đoàn du khách 23 người có đa số người trẻ U40, U50. Đối với hướng dẫn viên thì du khách tuổi nào cũng giúp đỡ được, nhưng với đoàn có nhiều người trẻ đang hăng say cuộc sống, đang có nhiều khát vọng thì việc họ phải nghe theo người ít tuổi một cách tuân thủ là khó hơn nhiều so với những người cao tuổi. Người cao tuổi thường nghiêm túc, tuân thủ tốt nhưng khổ nỗi lại hay quên, cứ hỏi đi hỏi lại. Người trẻ hơn thì giỏi nhớ nhưng (cũng khổ nỗi) có chịu nghe đâu mà nhớ, lại không thèm hỏi lại. Đại loại đều như thế, du lịch mà.

Cái khó của người hướng dẫn là thỏa mãn (tất cả) du khách. Điều đó rất khó vì mỗi người trong chuyến đi mang đều theo một mong muốn không hẳn giống nhau. Một hướng dẫn viên có công việc quan trọng số 1 là PHẢI bảo đảm để không xảy ra sự cố du lịch (thất lạc khách, quên đồ dùng, lạc đường, mất giấy tờ, an toàn...). Còn lại sự quan trọng số 2, số 3… là làm cho khách vui vẻ, đáp ứng được nhiều nhất các nhu cầu rất khác nhau của khách (mỗi người một ý). Minh Thu đã giúp đoàn đạt được cơ bản niềm vui cả chuyến bằng các “kĩ thuật cơ bản” cộng với các “kĩ xảo nghề nghiệp” để khi thì nói nhẹ như gió thoảng, khi thì cười giòn giã vô tư như nắng hồng, khi thì xăm xăm hùng hổ như giông bão, khi thì miệng nói, tay chỉ, chân đi như nước lũ cuốn cuốn cả đám khách trẻ lẫn già… Tôi nghĩ đó là “kĩ xảo” có được của những người rất nhiều năng lượng và có tình yêu chân thành với du khách. Bằng những cách đó chúng tôi khó có thể biết được Minh Thu là cô gái dịu hiền, hay cô ấy là hoạt náo viên, hay cô ấy là người biết “thuật mê hoặc”. Cứ thế cô ấy đưa đoàn đến và về đã làm vui cho mọi nhiều.

Tôi là người đã đi vài chục chuyến du lịch quốc tế đến đủ khắp 5 châu nên đã thấy nhiều chuyện về hướng dẫn viên. Gặp tới hàng trăm hướng dẫn viên mà không nhớ được họ (cả chuyến đi dài ngày) vì họ chỉ cơ bản đã làm tốt được công việc quan trọng thứ nhất – công việc nhất thiết phải hoàn thành. Người hướng dẫn viên làm được những giá trị gia tăng cho khách đều phải là những hướng dẫn viên có tố chất yêu nghề: tận tụy, nhiệt huyết, truyền cảm hứng và tràn trề năng lượng. Cô Minh Thu là người có tố chất yêu nghề.

Chúng tôi mong cô Đặng Thị Minh Thu phát huy tốt những điều tốt đẹp của mình và không ngừng học hỏi để ngày càng tiến bộ trong sự bồi dưỡng lòng yêu nghề ở nhiều “phiên bản” cao hơn nữa.  

  

Thứ Tư, tháng 4 16, 2025

Chuyến đi công tác Campuchia (kì 6)


Tôi trở về Việt Nam

Gần 2 tháng tôi ở Campuchia, một hôm Hanh trở lại xưởng (sau 2 lần “được trốn về nước” thăm vợ mới), tôi bảo Hanh và Hạnh: Tuần sau tôi cũng sẽ về Việt Nam xem tình hình thế nào vì ở đây tôi chẳng thấy người ta xúc tiến công việc gì cho hoạt động của xưởng. Cả tháng nay mấy anh em thợ cũng chẳng thèm sửa chữa gì vì khi tôi hỏi thì anh em bảo không biết làm gì nữa với cái máy nổ này. Các anh em chưa bao giờ được học sửa cái máy to như thế. Máy không nổ được thì làm gì có chuyện người ta đưa lúc thóc đến để chà. Tôi sẽ về rồi xem ý của Phòng Sản xuất, Cục Hậu cần Việt Nam thế nào. Nếu cử thì tôi trở lại Campuchia thì tôi phải biết công việc của tôi ở đó là gì và phải có giấy tờ gì đó cho chính đáng cái công việc của tôi ở đây. Ông Kì Vân chỉ bảo tôi ở đây bằng một lệnh nói miệng, đâu có cụ thể là ở làm gì, bao lâu, để giải quyết công việc gì,… Hanh đồng ý với tôi, còn Hạnh thì không nói gì, nhưng tôi hiểu Hạnh cũng cho là phải.

Chuyến đi công tác Campuchia (kì 5)

Vài mẩu chuyện khác

Ở lối ra vào chỗ bếp ăn của xưởng thông ra bến sông, hôm nào tôi cũng gặp một ông già người Khmer cao to, da màu đồng, chỉ quấn một xà-rông đứng đó xin ăn. Mừng bảo ông này không có gia đình nên chẳng làm gì, hàng ngày cứ đến các đơn vị quân Việt Nam xin ăn. Có gì ăn nấy và ông có vẻ rất thoải mái, vui vẻ. Tôi thấy ông hiền lành, khuôn mặt rất bình thản, dễ mến nhìn chúng tôi đi đến các bữa ăn. Có lẽ ông cười vui lấy lòng vì hôm nào tôi cũng bảo với Mừng hoặc Hạnh đem cho ông một ít cơm và chút thức ăn vào cái bát gỗ to ông luôn mang theo mình.