Chủ Nhật, tháng 7 20, 2025

Đại học Nông nghiệp I đào tạo kĩ sư kinh tế thời chúng tôi học như thế nào?

Một lần nữa xin tặng các anh chị KT20A 

 

1. Đối tượng học

Ngành Kinh tế nông nghiệp các khóa trước 20 lấy đối tượng thi đại học khối A, năm 1975 lấy cả khối A và B. Những người thi khối B như tôi được học lấy bằng kĩ sư kinh tế là may mắn. Tôi cũng có ghi chép ở https://lehuuanhghichep.blogspot.com/2025/06/cuoc-song-sinh-vien-nhung-ngay-au-tien.html nói về buổi điểm danh cuối tuần tối chủ nhật, Thầy chủ nhiệm lớp tên Khôi nhắc đến sự tự hào được học Khoa Kinh tế, nhất là những người dự thi khối B.

2. Một chương trình có yếu tố độc đáo

Chương trình đào tạo đã nêu ở https://lehuuanhghichep.blogspot.com/2025/07/mot-chuong-trinh-ao-tao-oc-ao-va-sang.html có yếu tố độc đáo. Tính độc đáo ở chỗ chỉ có ở khóa này mà không có ở khóa khác. Đối với KT20 chúng tôi có được những trải nghiệm sau:

Thứ nhất, KT20A và KT20B có chuyến đi thực tiễn quan trọng là điều tra cơ giới hóa nông nghiệp tại Hải Hậu 4 tuần trước khi đi thực tập tốt nghiệp. Chuyến đi này phục vụ chương trình “quả bom cơ giới hóa nông nghiệp” của Đại hội IV do Tổng Bí thư Lê Duẩn thí điểm ở 2 huyện Nam Ninh và Hải Hậu (thuộc tỉnh Hà Nam Ninh). Có dịp tôi sẽ ghi chép đầy đủ hơn vì sau đó tôi được tiếp tục thực tập tốt nghiệp tại Hải Hậu 6 tháng cùng với các anh Dương Ngọc Đĩnh, Trần Hữu Giang và Nguyễn Văn Tường (anh Tường “cận” học KT19 nhưng đi thực tập và thi tốt nghiệp với lớp KT20A). Khi đó 4 người chúng tôi được coi như thành viên của Tổng cục trang bị kĩ thuật Bộ Nông nghiệp.

Trường ĐHNNI thường có nhiều hoạt động thực tiễn. Tất nhiên các cơ hội chỉ có cho từng khóa riêng biệt. Khóa 17 toàn trường được đi điều tra nông nghiệp Tây Nguyên do GS Lê Duy Thước, Hiệu trưởng phụ trách chương trình[1]. Đa số các anh chị Khóa 17 tất cả các ngành được “đặt cách”[2] ra trường vì được huy động đi điều tra từ khi chưa học hết chương trình đại học. Lớp KT18 cũng có một số anh chị được tốt nghiệp kiểu “đặc cách”.

Thứ hai, Được học Toán điều khiển học (tiếng Anh: cybernetics), nhờ đó chúng tôi có ý niệm về Phương pháp Đường găng hay  Sơ đồ mạng CPM, (tiếng Anh là Critical Path Method). Thầy Thanh dạy Toán nói rằng, đây là nội dung được dạy lần đầu tiên ở ĐHNNI. Sau đó thầy Thanh đi thi nghiên cứu sinh ở trường KTQD nên các khóa KT21 và KT22 không được học Toán điều khiển (tôi không chắc lắm về KT23).

Cũng là môn Toán, lần đầu tiên PTS Tô Cẩm Tú dạy cho KT20 môn toán xác suất (năm thứ 3). Khi đó thầy Tú vừa hoàn thành nghiên cứu sinh từ Nga trở về nhưng vẫn học thêm 1 kì toán (các khóa trước chưa được học môn này). Dù chỉ 45 tiết nhưng các nội dung và tư tưởng của môn học này rất quan trọng cho công việc của nhiều người trong chúng tôi sau này.

Thứ ba, Các hoạt động khác:

-       Một số sinh viên được huy động tham gia đổi tiền 1-5-1978 trên phạm vi toàn quốc. Lần đó, do ngày nghỉ 30-4 và 1-5 khá dài nên đa số sinh viên về quê. Nhà trường huy động những sinh viên có mặt ở trường đi thực hiện đổi tiền. Các anh lớp KT20B được huy động gồm anh Ngọ, anh Liễu, anh Đình, anh Hạ… Nghe nói sau vụ này anh Hạ vì sơ suất gì đó nên bị coi là vi phạm và sau phải thi tốt nghiệp với KT21.

-       Chuyện đi lao động công ích được huy động KT20 tại sông Tô Lịch cũng là điểm đáng nhớ. Chúng tôi được tham gia lao động nạo vét lòng sông để tạo nên hình hài sông Tô Lịch ngày nay, coi như một đóng góp xây dựng Thủ đô của Việt Nam.

 

3. Những điểm quan trọng của chương trình đào tạo kĩ sư kinh tế nông nghiệp

Tôi xin không đi vào phương pháp giảng dạy vì hồi đó kĩ thuật “thầy đọc - trò chép” là chuyện của mọi trường đại học chứ không phải chỉ có ở ĐHNNI. Lí do là không có giáo trình và công nghệ giảng dạy còn lạc hậu. Chuyện này ngày nay cơ bản bị “tiệt chủng” bằng nhiều công nghệ giảng dạy tiên tiến khác.

3.1 Học và thi như thế nào?

Các môn học khi đó được thiết kế các mức 30 tiết, 45 tiết, 60 tiết, 90 tiết, 120 tiết, 180 tiết, 240 tiết. Các môn từ 60 tiết trở lên là môn thi, dưới 60 tiết là kiểm tra. Môn thể chất và quân sự là kiểm tra (mặc dù quy đổi thì rất nhiều tiết).

Khóa KT20 có tất cả 19 môn thi – với 23 lượt thi (vì có những môn thi 2 lần: Nga văn, Toán, Kinh tế chính trị, TCQL XNNN). Không kể 3 môn thi tốt nghiệp là Chính trị Mác – Lênin (gồm kiến thức của Triết, KTCT và Lịch sử Đảng), Kĩ thuật nông nghiệp (kiến thức của nhiều môn trồng trọt và chăn nuôi) và Báo cáo đề án TTTN.

Việc học và thi được phân bố theo học kì. Các môn học được trang bị lần lượt theo khối kiến thức Cơ bản – Cơ sở - Chuyên môn một cách khá linh hoạt xen với thực tập nghề nghiệp nhiều mức độ.

Cách thi vấn đáp là chủ yếu, thi viết chỉ tổ chức trong trường hợp các bộ môn không đủ giáo viên hỏi thi. Thi vấn đáp thường diễn ra cả ngày cho mỗi môn học. Lớp có khoảng 60 SV, mỗi SV trả lời 20-30 phút, mỗi môn có 2 bàn hỏi, mỗi bàn thường 2 giáo viên (có khi 3) nên phải cả ngày mới xong.  

Các môn thi theo quy định có thời gian ôn từ 5-7 ngày, các môn kiểm tra thì không bố trí thời gian ôn. Tất cả các môn thi và kiểm tra nếu không đạt đều phải thi, kiểm tra lại, nhưng cơ bản đạt lần 2! Việc thi cử khá nghiêm túc và hồi đó không có chuyện “chạy điểm”. Vì thế mọi người lo lắng đều tập trung ôn thi. Trong “mùa thi” thì việc “xí chỗ” ngồi ôn thi ở giảng đường rất phổ biến: để ở bàn 1 quyển vở nháp chẳng hạn thì coi như chỗ đó đã có người ngồi! Ban đêm người ta chỉ mở CLB sinh viên, mà đa số mất điện giờ cao điểm nên ai cũng sắm một chiếc đèn dầu nhỏ để ôn thi. Nhìn vào giảng đường nóng bức mùa hè mà thấy đèn dầu sáng đỏ những phòng học cấp 4 trước KTX A1 mới biết sinh viên ham quý cái học và sự nghiêm túc của thi cử thời ấy! Trong sinh viên lan truyền thơ con cóc: “5 năm có 8 kì thi, một kì tốt nghiệp còn gì là Xuân!”

3.2 Kĩ sư kinh tế nông nghiệp phải học những môn cơ bản nào?

Các môn cơ bản gồm Toán – Lí – Hóa – Sinh. Toán giải tích (120t), Toán kinh tế (120t) gồm vận trù (60t) + điều khiển (60t) và Toán xác suất (45t) - tổng cộng Toán 285 tiết. Vật lý đại cương: 120t. Hóa (hữu cơ – phân tích – lí thuyết): 120t. Nguyên lí sinh học: 60t.

Tại sao học nhiều toán trong chương trình? Tôi thiển nghĩ người ủng hộ chương trình này GS Lê Duy Thước - Hiệu trưởng. Khi xưa GS đỗ tú tài toán xuất sắc mà xin chuyển từ Đại học Y Đông Dương sang Cao đẳng Nông Lâm rồi thành kĩ sư canh nông nổi tiếng[3]. Nếu lấy từ cuộc đời công việc của tôi thì trong các môn cơ sở như trên tôi chỉ thấy Vật lý đại cương là chưa sử dụng cho nghề nghiệp. Hay có lẽ do cái nghề của tôi vậy!

3.3 Môn ngoại ngữ

Cả trường chỉ học Nga văn, nhất là kĩ sư kinh tế. “Người cộng sản phải biết tiếng Nga, tiếng nói của Lênin vĩ đại” là câu nói (của ai đó) nổi tiếng thời đó trong giới trí thức cộng sản.

Môn Nga văn quy định như sau: mỗi tuần 2 tiết, năm thứ nhất kiểm tra, năm thứ 2 kì 1 kiểm tra, kì 2 thi vấn đáp. Năm thứ 3 kì 1 kiểm tra, kì 2 thi vấn đáp hết môn. Riêng 2 kì có thi được tăng số tiết lên 3 hoặc 4t/tuần. Như vậy kĩ sư kinh tế được học Nga văn 3 năm (khoảng 300t).

Thời đó các anh em mới tốt nghiệp phổ thông chúng tôi đều học khá tiếng Nga, nhất là về ngữ pháp. Nhưng vì thầy giảng tiếng Nga bằng tiếng Việt nên chúng tôi không thể nghe và nói được tiếng Nga. Vào cuối năm thứ 3 thì chỉ có thể đọc được sách chuyên môn tiếng Nga. Số anh em lớn tuổi thì chỉ mong qua môn tiếng Nga, may ra còn nhớ lơ mơ kiểu “vừa-đi-vừa-đá-vừa-chen” khi đọc từ giáo viên (преподаватель) hay “tình hình сейчас (seychas) có gì новый (nô-vưi)” tức là nửa Nga nửa Việt: tình hình hiện nay có gì mới!

Cách đào tạo đó chắc chắn đọc được tiếng Nga chuyên ngành dành cho kĩ sư, nhưng nếu nói và nghe được tiếng Nga thì phải học thêm rất nhiều.

3.4 Các môn chính trị

Tôi nghĩ chương trình này rất quan trọng cho kĩ sư kinh tế vì hiểu biết lí luận chính trị chính là nghề nghiệp. Khi đi thực tập giáo trình, tôi được biết câu: các anh chị là những người “đầu đội chính sách vai mang chứng từ” nên phải hiểu được lí luận.

Chương trình như sau: Triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Kinh tế chính trị học (TBCN và XHCN) và Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam. Sau đó khi ra trường thi Môn Chính trị Mác -Lênin. Một chương trình học về lí luận chính trị khá nhiều và đầy đủ.

3.5 Các môn kiến thức cơ sở

Kiến thức cơ sở thuộc nhóm môn học được trang bị để có cơ sở đi sâu vào các môn chuyên môn. Nhiều nhất là kiến thức ngành trồng trọt, từ đại cương đến chuyên khoa, còn có thêm cả bảo quản chế biến. Kiến thức ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm, thú y cơ bản cũng được học vừa đủ, nhưng ít hơn trồng trọt.

Cơ khí nông nghiệp được trang bị kiến thức về động lực ô tô - máy kéo, nhiều loại máy nông nghiệp như làm đất, bơm nước, chế biến, ấp trứng, thu hoạch và một phần về điện nông nghiệp.

Thời lượng các môn học kĩ thuật nông nghiệp khá lớn, đủ để hiểu biết cơ bản các cây, con trong thực tế sản xuất. Khi đi thực tập giáo trình các môn học chúng tôi rất dễ dàng quan sát và học hỏi được quy trình sản xuất các đối tượng này. Công việc người kĩ sư kinh tế là phải biết hết các đối tượng sản xuất.

3.6 Các môn chuyên môn

Tôi tạm coi môn Địa lí kinh tế thuộc kiến thức cơ sở, như vậy chỉ còn có 7 môn chuyên ngành gồm: Kinh tế nông nghiệp, Thống kê nông nghiệp, Kế hoạch nông nghiệp, Kế toán nông nghiệp (HTX và NTQD), Tài chính - Tín dụng xí nghiệp nông nghiệp và Tổ chức quản lý xí nghiệp nông nghiệp (HTX và NTQD). Các môn này được học khá chi tiết và cụ thể. Tất cả các nội dung học 7 môn đều có phần thực tập nhóm môn học (gọi là thực tập giáo trình).

Thực tập giáo trình 12 tuần đi thực tế (2 lần) rất bổ ích không chỉ cho quan sát thực tế mà còn được trực tiếp bắt tay vào các nhiệm vụ của cơ sở thực tập.

3.7 Giáo dục thể chất

Về đào tạo thể lực thanh niên đại học gồm: Điền kinh (năm thứ nhất) học chạy 1000m. chạy 100m; Thể dục dụng cụ (kì 1 năm thứ 2) học nhảy xa, nhảy cao, nhảy ngựa, xà đơn, xà kép. Kì 2 năm thứ hai là Thể thao đồng đội học bóng chuyền.

Điền kinh phải bảo đảm đạt tiêu chuẩn vận động viên hạng 3: chạy 1000m (2,5 vòng sân vận động): không rõ mấy phút? Chạy cự li ngắn 100m: tiêu chuẩn 15s. Như vậy chương trình bảo đảm tính toàn diện: nâng cao thể lực, khéo léo với dụng cụ đồng thời là thể thao đồng đội.

3.8 Lao động nghề nghiệp 12 tuần

Năm thứ nhất có 8 tuần lao động làm quen nghề nghiệp qua các công việc làm nông diễn ra tại trường. Hàng ngày ra Trại Thực tập Thí nghiệm (TTTN) nhận công việc cho lớp hoặc cho một nhóm người theo yêu cầu nhân lực của Trại. Nói chung toàn những công việc mà những thanh niên nông thôn như tôi không có gì lạ. Tổ 1 có anh Nguyễn Ngọc Minh là con em công nhân mỏ Mạo Khê và anh Trần Duy Học là dân phố Nam Sách có thể là mới chăng?

Năm thứ 2 mỗi kì có 2 tuần lao động theo thời vụ huy động của Trại TTTN. Từ cuối học kì 1 năm thứ hai chúng tôi được lao động theo hình thức mới: Thầy Chủ nhiệm Khoa Phan Trọng Đỉnh đề nghị nhà trường khoán cho các lớp kinh tế làm thí điểm (bắt chước một phần của Bí thứ Kim Ngọc)[4]. Mỗi lớp được giao một số diện tích trồng lúa (nhưng chỉ cấy, chăm sóc và thu hoạch, phơi riêng), còn các khâu như mạ, làm đất, tưới nước và bón phân thì không giao cho lớp. Nhờ chuyện này chúng tôi được bữa liên hoan cả lớp rất đáng nhớ hồi ở KTX B3 (tôi sẽ có dịp ghi chép kĩ hơn sau này). Đây cũng được coi là công việc sáng tạo vì khi đó ngoài xã hội đang bắt đầu có chuyện khoán trong nông nghiệp.

3.9 Huấn luyện quân sự - dân quân tự vệ

Mỗi sinh viên có 2 tháng huấn luyện quân sự ở 2 năm học đầu. Đầu tiên là kĩ thuật đội ngũ để thể hiện sức mạnh và tính tập trung kỉ luật của người lính. Sau đó là các kĩ thuật tập kích kiểu trườn. bò, lê, vận động giao thông hào, ném lực đạn. Cuối cùng là xạ kích và bắn đạn thật (tại trường bắn Từ Sơn). Tôi còn nhớ hồi đó Cao Ngọc Đức bắn được 30/30 điểm, còn tôi chỉ được 3 điểm 8 (thiếu 1 điểm để trở thành loại giỏi).

Huấn luyện quân sự là quy định bắt buộc phải đạt mức độ lực lượng dự bị để có thể bổ sung ngay cho chiến đấu khi cần.

 

3.10. Tổng hợp phân tích các môn học toàn khóa và một vài nhận xét đánh giá

 

Số môn           Số tiết và %

Cơ bản                         6                      585  (21,2%)

Cơ sở                           9                      660  (24,0%)

Chính trị                      3                      420  (15,3%)

Chuyên môn               7                      680  (24,7%)

Nga văn                       1                      255  (9,3%)

Thể dục                       1                      150  (5,5%)

Quân sự                       1                      2 tháng

 

Nhận xét đánh giá cơ bản

Sự giản dị, bình dân và nghiêm túc của chương trình đào tạo

Đây là sự nghiêm túc nói chung cho tất cả các ngành học, tôi nghĩ thế.

Người dạy: giản dị, thực hiện đúng giáo trình, giáo án. Tuy lối dạy “một chiều” thời đó không có tương tác với người học như bây giờ nhưng giáo viên rất ít “ra oai” khoe khoang, trái lại rất khiêm tốn, ít phê phán kêu ca, phàn nàn chế độ - dù ai cũng khó khăn và nghèo. Sinh viên rất ít tiếp cận và gần gũi các giáo viên, nhưng đều coi giáo viên là những vị có học thuật cao và rất kính trọng, ngưỡng mộ.

Người học: cần cù, chịu khó, chấp nhận. Thái độ chấp nhận thời đó tôi cho là điểm yếu nhất của người học vì không dám tranh luận, phản biện chuyên môn, ngay cả đối với những giáo viên trẻ. Tất nhiên giảng dạy lối “một chiều” dập hết tranh luận. Đa số nghĩ lại đúng – sai chỉ khi trải nghiệm thực tế công tác sau này.

Đánh giá thi cử: cơ bản đạt nghiêm túc, khách quan, phản ánh đúng sức học và ôn thi của cá nhân sinh viên. Tất nhiên – tôi nghĩ – mỗi người đều có những vấn đề chưa hẳn hài lòng nào đó với thi cử, nhất là thi vấn đáp. Có nhiều giáo viên đặt câu hỏi không rõ ràng cũng như nêu cho sinh viên những vấn đề không sát với nội dung đề thi mà sinh viên được yêu cầu trả bài. Ngoài ra, tâm lí thi cử của sinh viên không tốt nên lo sợ thầy hỏi nhiều hơn bĩnh tĩnh mạch lạc trả lời câu hỏi.

Học và thực hành theo chính sách và chế độ quy định

Chúng tôi được học và thực hành về chuyên môn tất cả những gì đang xảy ra trong thực tế. Giáo viên dạy những môn như kinh tế nông nghiệp, kế toán, thống kê, tài chính, kế hoạch, tổ chức quản lý… đều nêu rõ các chính sách hiện hành, đặc biệt các các quy định chi tiết (gọi là chế độ). Ưu điểm của lối giảng dạy này rất tốt cho người học khi đi thực tập sẽ thấy ngay những điều mình học trong thực tiễn HTX và NTQD và nhờ đó có thể làm được ngay khi tốt nghiệp đại học.

Hạn chế của lối dạy này là sự thay đổi của thực tiễn thường quá nhanh nên sau khi ra trường người học phải tìm hiểu chính sách và chế độ mới. Nói chung thường xuyên lạc hậu “một nhịp” so với thực tiễn – chỉ đúng khi đi thực tập môn học, nhưng đã “lạc hậu” khi đi làm!

Người học cơ bản khó tổng kết được lí luận căn bản (nguyên lí) từ những chính sách, chế độ (vì chính sách và chế độ chỉ là những biểu hiện của nguyên lí). Đây là thử thách cho sự thành đạt của những cán bộ biết vận dụng chính sách qua kinh nghiệm nhiều năm công tác.

Học và đọc sách

Khi đi học, chúng tôi đều được làm Thẻ thư viện nhưng khi lên mượn sách chúng tôi mới thấy sự nghèo nàn của thư viện. Khi hỏi mượn giáo trình – rất ít giáo trình, cơ bản chỉ có bài giảng in rô-nê-o. Ngoài ra việc thi bám theo những nội dung giáo viên đọc trên lớp nên thực ra không có nội dung gì cần tham khảo khác.

Khi học môn Kinh tế Chính trị phần XHCN, Thầy Cấn nói thư viện trường ta là thư viện có 5 vạn đầu sách rất đáng tự hào (khi đó thấy Cấn mới được đi tham quan các trường đại học phía Nam về). Tôi cũng thường xuyên lên thư viện nhưng chủ yếu chỉ mượn được một số sách văn học ở năm thứ nhất, sang năm thứ 2 thì không còn nữa. Nhưng từ năm thứ 3 và 4, tôi lại tiếp cận được với một số sách của phía Nam, đặc biệt các sách của chế độ Sài Gòn do Vũ Quốc Thúc biên soạn[5] về nền kinh tế và chính sách tiền tệ phía Nam. Tài liệu in kiểu rô-nê-ô bìa xanh rất dày, nhiều tập mà tôi vẫn còn rất nhiều ấn tượng về cách biên tập – nhất là đánh giá tài nguyên về tây Nguyên, Đồng bằng sống Cửu Long…  

Sau này tôi được biết rõ thêm về những nội dung giáo trình, bài giảng của giáo viên. Thì ra đều cơ bản được dịch từ tiếng Nga qua các sách của các trường đại học Liên Xô. Từ sau năm thứ 3, tôi cơ bản đọc được tiếng Nga chuyên môn, tôi thấy rất lạ là các sách của Liên Xô khi ấy cũng viết theo chế độ Nông trang tập thể và Nông trường quốc doanh và một số nội dung như khấu hao tài sản cố định, tổ chức chăn nuôi gia súc… khá giống với những gì chúng tôi được học. Thế mới biết vấn đề “mô hình chế độ kinh tế tập trung – bao cấp” được sao chép và lan truyền rất mạnh giữa các nước XHCN.

Được trực tiếp thực hiện các công việc thực tiễn

Đây là cách học đáng trân trọng bậc nhất của người kĩ sư kinh tế nông nghiệp. Thực tập giáo trình là được tìm hiểu thực tiễn để so sánh với những điều được học, nhưng quan trọng hơn là đều được trực tiếp tham gia vào các công việc quản lý. Lần thực tập 4 tuần ở các HTX huyện Gia Lâm, chúng tôi được tham gia thực hành chế độ kế toán HTX (43 tài khoản) và trực tiếp gặt điểm thống kê năng suất lúa. Lần thứ 2 tại NTQD Mộc Châu 8 tuần, chúng tôi được trực tiếp làm kế hoạch cho các đội, xưởng sản xuất và quan trọng hơn là được nghe Giám đốc Nguyễn Tài Anh nghe báo cáo và duyệt kế hoạch từng đơn vị. Vị giám đốc to lớn nói năng khàn khàn rất có uy tín thời đó đã giúp chúng tôi hiểu được những gì thực tế đang xảy ra mà không có giáo viên nào dạy nổi. Hàng năm, cứ vào quý 4 là NTQD Mộc Châu đón sinh viên kinh tế nông nghiệp như một sự kiện – sinh viên sẽ giúp các đội - xưởng làm kế hoạch cho năm tiếp theo[6]. Cứ như chuyện không có sinh viên kinh tế ĐHNNI thì NTQD Mộc Châu không ai làm được kế hoạch!

Tôi đánh giá rất cao chương trình đào tạo kĩ sư kinh tế nông nghiệp ở điểm đưa người học vào thực tiễn – từ giáo trình bài giảng vào cuộc sống sinh động của tổ chức HTX và NTQD – đơn vị kinh tế nông nghiệp cơ bản trong thời bao cấp oai hùng!

 

 

 

 

 

 

 



[1] GS Lê Duy Thước từng là kĩ sư canh nông Đông Dương, xem thêm tại 

https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Duy_Th%C6%B0%E1%BB%9Bc#:~:text=L%C3%AA%20Duy%20Th%C6%B0%E1%BB%9Bc%20sinh%20t%E1%BA%A1i,B%C3%A0ng%20(ph%E1%BB%91%20H%C3%A0ng%20Tr%E1%BB%91ng). Sau này GS là Chủ nhiệm chương trình nhà nước Xây dựng cơ sở khoa học của quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên (1984–1988).

[2] Đặc cách: cách làm đặc biệt được chấp nhận

[3] Xem thêm tại https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Duy_Th%C6%B0%E1%BB%9Bc#:~:text=L%C3%AA%20Duy%20Th%C6%B0%E1%BB%9Bc%20sinh%20t%E1%BA%A1i,B%C3%A0ng%20(ph%E1%BB%91%20H%C3%A0ng%20Tr%E1%BB%91ng)

[4] Bây giờ nhìn lại mới thấy ý tưởng này hay. Kim Ngọc thì nêu chuyện khoán từ những năm 1960s, nhưng 1977-1978 thì chỉ có Đoàn Xá, Kiến Thụy Hải Phòng khoán chui. Còn CT100 thì ra đời năm 1981 và NQ10 thì mãi 1988 mới có. Xem thêm về Kim ngọc tại https://vi.wikipedia.org/wiki/Kim_Ng%E1%BB%8Dc  

[6] Đây là chuyện có thực. Sau này tôi nhiều lần tham gia hướng dẫn TTGT ở Mộc Châu, tôi mới rõ tình cảm của cán bộ và công nhân ở các đội và phòng ban quý trọng sinh viên Khoa Kinh tế nông nghiệp ĐHNNI như thế nào. Họ luôn dành phần xây dựng kế hoạch hàng năm cho sinh viên. Có nhiều đội cho sinh viên trực tiếp báo cáo kế hoạch với Giám đốc tài Anh. Khóa KT27 tôi đã chứng kiến một sinh viên tức mà khóc trước mặt Giám đốc vì ý kiến của mình bị bác bỏ.

1 nhận xét:

  1. Cảm ơn giáo sư Ảnh đã hệ thống đánh giá lại chương trình đã học và đào tạo thời học đại học để mọi ngưòi hiểu thêm mình đã được đào tạo như thế nào. Cũng may là trong KT20A chỉ có Ảnh mới Tổng kết Đánh giá được điều này; chứ cứ như mình hay các người khác chắc là cũng đành chịu. Cám ơn tác giả nhiều nha🥰😍🤩

    Trả lờiXóa