1. "Roọc Đồng Pho, Chùa Phúc Ấm"
Đồng
Pho là lỵ sở mấy trăm năm của Cửu Chân, Ái Châu, là kinh đô một thời
của "Hoàng đế" Lê Ngọc hẳn phải nổi tiếng là nơi có nhiều
công trình kiến trúc quan trọng như thành lũy, trại lính, trại ngựa,
chợ, chùa chiền, danh thắng... Về mặt địa hình, đây chắc chắn phải
là nơi cao ráo có địa thế rộng rãi và nhất định phải có ưu thế về
công - thủ, lưu thông và tập hợp quần cư đông đúc.
Tuy
nhiên, do vị trí sát sông Gốm nên cũng như các làng xung quanh (Phúc
Ấm, Đồng Xá, Trúc Chuẩn, Hữu Bộc...), Đồng Pho có nhiều vùng đất
trũng gọi là roọc (rộc hay dộc) và vì Đồng Pho nhiều roọc nên mới
được coi là một đặc trưng của địa phương.
Ở
Đồng Pho có chùa Phúc Hưng, tuy nhiên, chùa Phúc Hưng mới có từ Thế
kỷ XVII, như vậy sau khi lỵ sở từ Đông Phố từ Thế kỷ XI chuyển về
Duy Trinh (Hậu Lộc ngày nay), những chùa chiền cổ ở đây hoặc cũng
được chuyển theo hoặc chuyển thành phế tích khi Lê Ngọc bị sát hại
(Thế kỷ VII).
Chúng
tôi nghĩ rằng làng Phúc Ấm có 2 chùa, nhưng một làng mà có tới 2
chùa thờ Phật cách nhau không đầy 500 m thì chắc phải là đặc trưng
quan trọng của làng. Việc lấy 2 đặc trưng của 2 làng làm đơn vị so
sánh (cách làm nổi bật trong giai thoại) cho thấy ngụ ý lấy số
nhiều hơn, rất nhiều... của nơi này so với nơi khác. Trong dân gian đây
là nghệ thuật ẩn dụ truyền miệng kiểu vè sống mãi trong dân nhằm
nhấn mạnh tính địa phương đặc trưng.
Một
địa danh lỵ sở thuộc chính quyền trực thuộc nhà nước, là Kinh đô
nổi dậy của vị Thái thú dũng cảm sao lại không lấy di sản lớn để so
sánh mà lại lấy rộc? Rất có thể giai thoại trên xuất hiện sau này khi
Đồng Pho đã không còn những chùa thời còn là Kinh đô. Từ khi Lê Ngọc
chết (năm 618) cho đến 1029 mới đổi lỵ sở, lẽ nào Đồng Pho lại ít
chùa hơn Phúc Ấm? Trước khi Đồng Pho có chùa Phúc Hưng (Thế kỷ XVII)
thì Phúc Ấm khi đó đã có 2 chùa? Vậy làng Phúc Ấm có tự bao giờ và
chùa ở Phúc Ấm được xây từ năm nào?
2.
"Đồng Pho Phúc Ấm Đại Từ, Gặp 3 làng ấy thì từ mặt ra"
Câu
này nổi tiếng trong dân gian vùng Nông Cống, Đông Sơn xưa. Cách hiểu câu
này cũng có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo quan điểm cá
nhân, có thể trao đổi trên 2 mặt sau đây:
Quan
điểm "kiềng" mặt
Chữ
"từ mặt" mang nghĩa khó chơi, khó hợp tác,... là cách hiểu
phổ biến, cho là 3 làng không chơi được, do tính ngỗ nghịch, thái độ
tránh xa cho yên ổn, để không bị bắt nạt, ức hiếp...
Vị
trí 3 làng này như 3 đỉnh của một tam giác cân. Đáy tam giác là Đồng
Pho ở phía Bắc và Phúc Ấm ở phía Nam. Đỉnh tam giác là Đại Từ
cách Đồng Pho và Phúc Ấm chừng 4km. Trong tam giác ấy còn nhiều làng
lớn khác như Ngọc Lậu, Cẩm Nga, Mục Nhuận... Rõ ràng đây không hẳn
là 3 làng lớn nhất vùng.
Đồng
Pho là làng cổ có giá trị "Kinh đô" thì đương nhiên về hình
ảnh có những tác động lớn đến xung quanh, còn Đại Từ là một làng
thuộc Doãn Xá. Thời Doãn Xá (thế kỷ XIV), làng Đại Từ thuộc đất
lập ấp của họ Doãn. Rất có thể là một số cư dân ở đây cũng chính
là người được cấp khi đó (chế độ nô lệ thời Trần) cho Doãn Bang
Hiến. Cũng có thể họ là quân lính của vị quan Thượng thư. Nếu vậy họ
tất từ xa đến, lại có nguồn gốc quân sự thì việc lập làng Đại Từ
phải có tính "giang hồ" kiêu binh... lập địa danh mới sinh
sống. Với tính cách ấy, nên "từ mặt" họ có lý do chính
đáng.
Vậy
Làng Phúc Ấm dựa vào đâu trong quan hệ với 3 làng ở quan điểm này
khi vị thế Đồng Pho và Đại Từ rất đáng nể?
Quan
điểm kính nể
Đây
là quan điểm được cho là ít phổ biến, nhưng tôi thiên về quan điểm
này bởi chữ "từ mặt" được hiểu là họ tự thấy mình kém
hơn, sự "từ mặt ra" do không đủ sức "chơi" với họ.
Lại
phân tích tiếp tính cách người Đồng Pho, rõ ràng điều kiện phát
triển ở lỵ sở nhất định tạo ra những người giỏi, người giàu, có
thế lực. Đại Từ nếu xét theo nghĩa làng ở đây có 2 giả thuyết: i/
Giả thuyết 1: Họ là dân nhập cư đến thời Doãn Bang Hiến (như đã nói
ở trên); ii/ Giả thuyết 2: Họ là dân làng cũ, nhưng bị bán nô lệ cho
Doãn Xá trong cơ chế cống đất. Ở giả thuyết 1, nếu họ từ nơi khác
đến nhất định sẽ phải đoàn kết nhất trí để làm ăn, sinh sống, vì
thế cố kết thống nhất thành một khối và vị thế đồng sức, đồng
lòng khi giải quyết các va chạm xã hội. Đó là lợi thế mà các làng
khác không có nên họ được kính nể! Còn ở giả thuyết 2 khi họ là
làng gốc nhưng bị ép giao ruộng đất cho Doãn Xá chắc chắn là bị va
chạm về quyền lợi đất đai, cư trú... với nhà quan lớn. Các xung đột
bảo vệ quyền lợi này tạo ra sức mạnh của làng và gây ra sự kính
nể cho làng khác.
Vậy
làng Phúc Ấm khi đó thì sao? Theo tôi, làng Phúc Ấm cũng có những
thế mạnh ngang hàng với 2 làng trên theo nghĩa này. Phúc Ấm cũng
được coi là đất học, nhiều người có lý lẽ, có sức thuyết phục.
Tất nhiên khi có học, họ sẽ bang giao rộng. Mặt khác đây cũng là nơi
có nhiều ruộng đất, nhiều nhà giàu nên có điều kiện kinh tế trong
việc tạo ra sức mạnh ở cửa trên để các làng khác phải kính
nể. Đó là chưa kể trong quan hệ quyền lực, khi làng có nhiều nhà
giàu, có học, có lý lẽ thì thường sẽ có những người tham gia chính
quyền. Chính vì thế nên có điều kiện phát huy các giá trị kính nể
như tài giỏi, năng động, mạnh mẽ, đoàn kết thành một khối khi quan
hệ với các làng khác.
Rõ
ràng câu này mang nghĩa kính nể thì hợp lý hơn nghĩa nghịch ngỗ,
thiếu văn hóa. Sau này, có người cho rằng thời "giặc" Văn Thân[1], 3 làng
này đoàn kết nên "giặc" không làm gì được... Đây cũng là
cách giải thích cho giai thoại trên, nhưng điểm quan trọng vẫn là cơ
sở nào để Phúc Ấm tạo ra được điều kiện chống "giặc", bảo
vệ làng mà các làng khác không chống lại được?
3. "Một sào Phúc Ấm bằng 3 sào Trúc
Chuẩn"
Câu
này tôi đọc được trong sổ tay viết văn của Tô Hoài khi ông tham gia Cải
cách ruộng đất ở Trúc Chuẩn. Ghi chép của ông để nói về kinh nghiệm
viết văn. Theo tôi ở đây chỉ thuần túy về kinh tế: Làng Trúc Chuẩn
sát sông Gốm (như Đồng Xá, Đồng Pho...) nên mùa màng thất bát rủi ro
nhiều hơn so với Phúc Ấm (do ở xa sông hơn và có đường Cửa Rộc chắn
ngang hạn chế lụt lội). Làng không chỉ có nhiều ruộng đất mà còn
có đất tốt, điều kiện canh tác thuận lợi hơn nên giàu có hơn. Từ sau
1928, nông giang tưới nhờ đập Bái Thượng của người Pháp càng làm cho
Phúc Ấm có điều kiện canh tác tốt hơn khi tưới tiêu dễ dàng hơn các
cánh đồng làng khác, nhất là Trúc Chuẩn.
[1] Xem Phong trào
Văn Thân (1864) chủ yếu ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Ở Thanh Hóa thì phong
trào có thể bị lợi dụng để gây bạo động mất trật tự ở một số
địa phương (nên gọi là "giặc Văn Thân") khi vào những năm
thoái trào.
Đây là những ý kiến riêng, có nhiều cách lí giải khác nhau về giai thoại
Trả lờiXóa