Môn
học này có số tiết là 120, phần Duy vật biện chứng 60 tiết do thầy Trần
Trường giảng và phần Duy vật lịch sử 60 tiết do thầy Thủy giảng.
Hồi
đó chúng tôi được học triết học nhưng có thể nói không mấy ai hiểu về nội dung và
tư tưởng của nó. Tôi lại vào học sau nên phần thầy Trần Trường đã dạy qua 8 tuần.
Tôi cứ nghe giảng, chép bài nhưng đến khi ôn thi mới rõ nhiều điểm về môn học
này. Dưới đây là những những điểm còn ghi nhớ trong kí ức.
1. Phần duy vật biện chứng do thầy Trần Trường giảng
Thầy
Trần Trường khi đó tầm tuổi ngoài 50, người tầm thước với khuôn mặt to, hơi
vuông, trán rộng hói cao. Khi giảng bài thầy khá tự tin, nụ cười như gắn với
khuôn mặt khá giãn ra vẻ lạc quan tin tưởng chuyên môn, mắt mở to nhìn thẳng xuống
lớp. Thầy cũng ít khi viết bảng nên ngoài lối “đọc – viết” thì thầy có rất nhiều
thời gian dừng để minh họa và giải thích qua những ví dụ. Thầy có giọng nói rõ,
khá to và tự tin, nhiều phần bài giảng như là thầy đã dạy cho nhiều lớp nên có
vẻ như đã thuộc, nhất là các khái niệm. Buổi giảng của thầy khá sôi nổi vì có sự
cuốn hút nhất định và những ví dụ khá sinh động về diễn đạt câu chuyện triết học
thành những sự kiện trong cuộc sống. Nhiều trận cười trong lớp từ những minh họa
của thầy.
Khi
tôi vào lớp thì thầy đã giảng xong chương Vấn đề cơ bản của triết học Mác - Lênin
và đang vào phần cuối của chương Vật chất và ý thức. Khi nghe giảng trên
lớp tôi chỉ còn nắm được mấy ý cơ bản sau đây:
-
Vật chất có trước,
ý thức có sau; vật chất quyết định ý thức, ý thức có tác động trở lại đối với vật
chất.
-
Vận động là tuyệt
đối, là thuộc tính cố hữu của vật chất với 5 loại vận động: cơ học, vật lý, hóa
học, sinh học và xã hội.
Thầy
nói về “đứng im là tương đối” với ví dụ rất sinh động. Đứng im chỉ là một
trạng thái tạm thời, một dạng đặc biệt của vận động, xảy ra khi sự vật ở trạng
thái cân bằng, ổn định trong một mối quan hệ và hình thức vận động cụ thể.
Chương
tiếp theo là Phép biện chứng duy vật gồm Hai nguyên lý của phép
biện chứng duy vật[1].
Ba quy luật cơ bản[2] của phép biện chứng duy vật
và Sáu cặp phạm trù[3]. Về Hai nguyên lý, tôi còn
nhớ:
-
Mối liên hệ phổ
biến là mọi sự vật hiện tượng đều có
mối liên hệ, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt của một sự vật,
hiện tượng trong thế giới.
-
Nguyên lý về sự
phát triển: Phát triển (tiến hóa) là quá
trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn hiện hơn, diễn
ra theo đường xoáy ốc, có tính kế thừa…
Có
lẽ trong thời gian học chúng tôi nhớ những minh họa của thầy Trường chuyển sự
khô khan khó hiểu của triết học thành những thực tiễn vui nhộn. Tôi kể lại dưới
đây một vài ví dụ để chúng ta có dịp ôn lại kí ức một thời:
-
Nói về “đứng
im tương đối” thầy chỉ cái bục giảng nói nó đang đứng im trong quan hệ với cả
giáo viên và lớp khi giảng bài và cả khi chúng ta ra về nó vẫn đứng im, tiết
sau ta đến lại thấy nó…
-
Nói về “thống
nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập”, ví dụ thầy nêu là cha mẹ muốn con
học hành để phát triển, nhưng con muốn ăn chơi lêu lổng, rõ ràng là sự thống nhất
là lợi ích của bố mẹ và con cái lâu dài, nhưng con cái lại chống đối…
-
Về quy luật “lượng
đổi - chất đổi” thầy ví dụ hóm hỉnh: một em bé gái ta gặp khi em còn bé thì
ta có thể nói chuyện với em, ẵm bế em trên tay, đưa em đi chơi… Nhưng chẳng hạn
sau đó 10 năm sau ta gặp lại thì em bé khi xưa đã thành thiếu nữ xinh đẹp, ta
không thể còn dám ẵm bế em nữa…
-
Về “phủ định của
phủ định” thầy nói quả trứng nở ra con gà, không thể nở ra con vịt, nhưng từ
quả trứng thành con gà, rồi thành đàn gà… nhất định cần sự phủ định của quả trứng
đem ấp.
-
Thầy nói về cặp
phạm trù “cái riêng - cái chung”: mỗi người là cá nhân riêng biệt, nhưng
một nhóm người thì có cái chung, ví dụ chúng ta ở đây có cái chung là lớp KT20…
Đại
loại thế, bài giảng của thầy có nhiều tiếng cười trong lớp nhưng không để lại
nhiều ấn tượng sâu sắc về chuyên môn. Tôi nghĩ thầy cho rằng với 60 tiết giảng
thì không thể nói được những điều cao siêu về triết học!
2. Phần duy vật lịch sử do thầy Thủy dạy
Thầy
Thủy quê xứ Quảng (không rõ Quảng Nam
hay Quảng Ngãi). Thầy có vóc dáng gầy, thấp nhỏ, nhưng có giọng cao vút rất
vang, bảo đảm cả phòng học 120 người nghe rõ dễ dàng. Các buổi lên lớp tôi luôn
thấy thầy ăn mặc giản dị: một chiếc áo trắng không mới và quần silimi màu nâu đất
có thắt lưng nhỏ rất cũ. Thầy đi đôi dép rọ nhựa kiểu quân đội hồi đó màu nâu
sáng, không đi tất (dớ), rất ít khi thấy thầy đi giày. Tôi đoán thầy trước cũng
là chiến sĩ hoặc cán bộ tập kết ra Bắc hồi 1954. Giờ giấc ra vào lớp đúng kẻng
cũng như dáng đi khá nhanh nhẹn cho thấy phong cách gần với một thời bộ đội.
Khuôn
mặt thầy có những nếp khóe mắt và miệng như tạo ra một nụ cười thường trực trên
bộ mặt hồn hậu, khiêm tốn. Thầy ít viết bảng, đứng bục nhìn giáo án là chính
nhưng qua giọng thầy chúng tôi rất dễ dàng biết phần phải chép hay phần giảng
những ý của giáo án. Rất ít khi thầy tương tác với người học và cũng không thấy
thầy bình phẩm gì theo kiểu liên hệ với cuộc sống khó khăn hiện hành.
Một
chi tiết tôi còn nhớ rõ là khi viết bảng, tôi thấy thầy không phân biệt được chữ
viết có dấu hỏi hay dấu ngã. Ví dụ thầy viết “lịch sữ”, “hạ tằng cơ sỡ”, “cũa cãi”,
“giảy chết”… Có lẽ có người phát hiện ra lỗi nên thầy bảo: “Dân xứ Quảng không
viết được dấu hỏi và dấu ngã vì khi phát âm đều thấy như nhau, cả thầy dạy tôi
hồi nhỏ cũng không phân biệt được”.
Phần
thầy dạy là triết học Mác - Lê nin về duy vật lịch sử. Khi học thì chắc ít ai
hình dung được đầy đủ về tinh thần hay tư tưởng của nó, nhưng đại loại tôi vẫn
nhớ rằng thầy nói về Hình thái kinh tế - xã hội[4],
về quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là
quan hệ giữa người với người. Khi quan hệ sản xuất khi bị lực lượng sản xuất
phá vỡ thì chuyển sang hình thái kinh tế xã hội mới. Lịch sử loài người là lịch
sử thay thế của những hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, đến nay đã trải qua
5 hình thái kinh tế - xã hội.
Hình
thái kinh tế - xã hội tư bản được thầy phân tích khá kĩ về tính chất của lực lượng
sản xuất (máy móc và kĩ thuật), còn quan hệ sản xuất có bản chất là bóc lột nên
mâu thuẫn giữa người lao động và giới tư bản trở nên gay gắt. Nhưng hình thái
kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa thì thầy chỉ nói đây là quá độ lên chủ nghĩa
cộng sản và ở chủ nghĩa cộng sản thì lực lượng sản xuất có thể tạo ra “của cải
nhiều như nước chảy” và khi đó người lao động “làm theo năng lực hưởng
theo nhu cầu”.
Một
phần khác mà thầy Thủy dạy cũng lí thú khi thầy nói về cơ sở hạ tằng và kiến
trúc thượng tằng (sau này người ta dùng từ “tầng” thay cho “tằng” – tôi nghĩ
dùng tằng hay hơn, nếu dịch Hán tự sẽ là thượng tằng kiến trúc- hạ tằng cơ sở).
Thầy nhấn mạnh hình thái ý thức xã hội như chính trị, đạo đức, pháp quyền, triết
học, tôn giáo, nghệ thuật… thuộc kiến trúc thượng tằng được hình thành trên điều
kiện nhất định của cơ sở hạ tằng…
Có
chuyện mà tôi còn nhớ: thầy nói về tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội,
nhưng trong dân gian ý thức xã hội thông thường được hình thành từ thực tiễn
chưa được hệ thống hóa. Ví dụ thầy đưa ra là, người dân Bắc có kinh nghiệm qua
câu ca dao “Bao giờ cho tới tháng 3, Hoa gạo rụng xuống thì tra hạt vừng”
– rõ ràng là kinh nghiệm mà không rõ về lí luận.
Về
giai cấp và đấu tranh giai cấp thì tôi nghĩ mọi người đều còn nhớ những quan điểm
chính: đấu tranh giai cấp là động lực của sự phát triển xã hội, khi xã hội có
giai cấp thì có mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp…
Có 2
khái niệm hồi đó được học rất rõ ràng, nhưng nay ta không thấy trong các chương
trình đại học nữa. Đó là “bạo lực cách mạng” và “chuyên chính vô sản”. Bạo
lực cách mạng là quy luật phổ biến của mọi cuộc cách mạng, là “bà đỡ” của
một chế độ xã hội cũ đang thai nghén trong lòng xã hội mới. Chuyên chính vô
sản được coi là công cụ để giai cấp công nhân sử dụng trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội[5]. Tôi được
biết từ Đại hội VI (1986), Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã không dùng những thuật
ngữ này trong tiến trình đổi mới đất nước. Và những quan điểm dưới đây được
chúng tôi ghi nhớ cho đến ngày nay:
- Cách
mạng vô sản sẽ nổ ra và thắng lợi ở khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền tư bản
chủ nghĩa (Lênin).
- Chủ
nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản “giãy chết”, là giai đoạn tột cùng của chủ
nghĩa tư bản. Chủ nghĩa đế quốc là đêm trước, phòng chờ của cuộc cách mạng xã
hội của giai cấp vô sản (Lênin).
Có thể
nói là phần giảng của thầy Thủy tôi còn nhớ được nhiều hơn phần thầy Trường, hay
vì tôi được nghe thầy Thủy dạy từ đầu, còn phần thầy Trường dạy tôi chỉ được
nghe đoạn sau?
Ôn thi môn
đầu tiên
Triết
học là môn thi đầu tiên của chúng tôi, được biết là thi vấn đáp nên chưa ai
trải nghiệm, vì thế mọi người học và ôn nghiêm túc lắm. Tự ôn được chừng 3 ngày
thì có buổi phụ đạo – các thầy nói những nội dung trọng điểm cần nắm vững để
thi. Nói chung cũng bớt được nhiều vấn đề “râu ria” phức tạp và cũng gọn được
rất nhiều. Phòng tôi có thói quen là có những thảo luận trước khi ngủ. Anh Ngọc
thường chủ trì nêu các vấn đề, mọi người trao đổi. Nhưng có những khái niệm coi
như được cả phòng thuộc lòng như khái niệm vật chất, khái niệm giai cấp của
Lênin và quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nay gặp lại mọi người trong Tổ 1, tôi
hỏi thì không còn ai nhớ nữa - tất nhiên tôi vẫn còn nhớ. Dưới đây là 3 khái niệm[6] bọn trẻ trong
phòng đều thuộc lòng hồi ôn thi.
“Vật
chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan mà con người biết được
là nhờ cảm giác. Cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh thực tại khách quan đó và
chúng tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” (Lênin).
Khái niệm
này hay bị quên đoạn sau “chúng tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
“Cố nhiên, vũ khí
phê bình không thể thay thế được sự phê bình bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ
có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất mà thôi, nhưng lý luận sẽ trở thành lực
lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng” (Mác).
Tôi còn nhớ hồi đó
Lê Cao Bính mới ra Hà Nội nên phát âm còn nặng tiếng Nghệ. Bính thuộc bài rất nhanh
nhưng đọc khái niệm này thành “Cộ nhiên, vụ khỉ phê bình…”
“Giai
cấp là tập đoàn người rộng rãi khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống
sản xuất xã hội nhất định, khác nhau về quan hệ của họ đối với những tư liệu sản
xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau
về cách thức hưởng thụ của cải xã hội” (Lênin).
Khái niệm này mọi người hay lẫn lộn 4 cái khác nhau nên anh Ngọc đề nghị “nghị quyết 4 khác”: địa vị, quan hệ, vai trò, hưởng thụ cho dễ nhớ.
Nhờ tự trao đổi và học hỏi nên phòng tôi ai cũng được “kiểm tra” kiến thức quan trọng về chuyên môn nên cũng khá yên tâm về thi sau 1 tuần ôn thi. Vấn đề là chưa ai trải nghiểm kiểu thi vấn đáp đại học bao giờ!
Môn thi
vấn đáp đầu tiên ngày 28-6-1976
Cần phải
nhớ lại chút về cách thi vấn đáp hồi đó: mỗi môn thi thường bố trí 2-3 bàn hỏi
thi. Mỗi bàn ít nhất 2 thầy, có khi 3 thầy (khi một số giáo viên đi dạy hết
tiết sẽ về hỏi thi). Người thi được gọi vào bốc thăm câu hỏi và được chuẩn bị
15 phút trước khi lên trả lời. Mỗi lần gọi 5 người vào bốc đề theo danh sách
trước bàn thi. Các thầy lần lượt gọi lên trả lời theo danh sách. Sinh viên trả
lời chứng 5-7 phút là trao đổi vấn đáp: thầy hỏi – sinh viên trả lời, thường
20-25 phút/sinh viên. Sau khi người thứ nhất thi xong thì gọi tiếp người thứ 6
vào bốc đề. Như vậy người đầu tiên được chuẩn bị 15 phút nhưng người thứ 5 có
khi phải ngồi hơn 1 giờ mới được gọi lên.
Cách thi
này rất hay vì chắc chắn rõ được hiểu biết của sinh viên vì trả lời trực tiếp
sẽ biết ngay sự chuẩn bị bài của họ vì không ai giúp gì được khi trả lời trước
các thầy.
Việc thi
tổ chức theo lớp nên lớp KT20A thi riêng, và ngày đó lớp KT20B thi môn khác.
Tôi được
gọi vào đầu tiên trong lớp theo vần A (cả lớp KT20A có mình tôi vần A). Tôi được
chuẩn bị 5 phút. Đề có 2 câu, một câu phần duy vật biện chứng, một câu phần duy
vật lịch sử. Nay tôi không còn nhớ câu hỏi nhưng cả hai câu tôi đều thuộc vì
đều có trong nội dung ôn tập sau buổi phụ đạo.
Tôi gạch
những ý chính ra giấy nháp để trả lời, đại loại là tôi đã thuộc nên rất yên tâm
về các ý cần trả lời mà không cần viết đầy đủ các ý đó trên tờ chuẩn bị. Thế là
tờ giấy chuẩn bị chỉ có mấy ý ngắn.
Tôi được
gọi lên bàn thầy Thủy và thầy Bảo. Là người đầu tiên và là lần đầu tiên được
trả lời kiểu thi vấn đáp nên tôi rất run. Bàn thi kê sát cửa ra vào, phía sau các
thầy bên ngoài cửa có rất nhiều người chen chúc nhưng im lặng nghe tôi trả lời
và các thầy hỏi. Khi tôi trả lời, có lẽ chỉ mất chừng 5 phút là nói hết cả 2
câu. Thầy Bảo hỏi: còn gì nữa không? Tôi im lặng lo lắng và các thầy hỏi. Thầy
Thủy hỏi một ý về nội dung tôi đã trả lời, chắc thầy muốn khẳng định xem tôi
nắm được bài không. Còn thầy Bảo hỏi một ý có tính liên hệ, tôi trả lời nhưng
có lẽ không rõ câu hỏi hoặc không trúng ý thầy nên thầy không đồng ý. Sau đó
thầy hỏi một câu khác và tôi trả lời được, rồi các thầy bảo nộp bài. Tôi không
nghĩ tờ chuẩn bị phải nộp nên khi đưa cho thầy, thầy Bảo nói: “Chỉ có mấy ý
thế thôi à!” Hai thầy ghi kí hiệu gì đó vào danh sách thi và tôi ra mà
không rõ là được bao nhiêu điểm.
Cuối
buổi chiều khi thi xong, cả 4 thầy thảo luận và đưa ra kết quả điểm thi. Ban
cán sự lớp được vào chép điểm thi từng người. Các thầy về thì mọi người nhốn
nháo vào hỏi, anh Hợp đọc điểm thi. Tôi được điểm 3/5. Có một số người được
4/5, trong đó phòng tôi có anh Hợp, anh Ngọc… Hình như không có ai phải thi lại
(tức là dưới 3/5).
Thế là
xong một môn thi thời đại học – môn thi đầu tiên và vấn đáp đầu tiên. Ai chắc
cũng rút được những kinh nghiệm cho riêng mình. Bọn trẻ chúng tôi thì chắc chắn
có vấn đề tâm lí nên hay run trước các câu hỏi của các thầy, chuyện này phải
sau rất nhiều môn thi cũng không cải thiện mấy dù rất thuộc bài. Một ý khác là
tôi thấy cần phải ghi ra tờ chuẩn bị càng dài càng tốt vì nếu quá ngắn thì rất
dễ bị coi là không có gì để chuẩn bị?
Những chuyện sau khi thi
Chuyện
anh Lê Xuân Trí trả lời câu hỏi
Sau
khi thi ra ngoài thì tôi còn nhớ rất rõ những gì anh Lê Xuân Trí trao đổi với mọi
người. Anh Trí được hỏi thêm về câu hỏi liên quan đến vật chất và ý thức, thầy
Bảo hỏi anh rằng hồi chiến tranh giải phóng miền Nam, một nhóm các cô dân quân
đã đánh lui quân địch hơn gấp đôi về quân số, vậy chiến thắng có phải là do ý
chí của các cô không? Anh Trí đã lưỡng lự một lúc nhưng bỗng nhớ lại là “lực lượng
vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất mà thôi” trong chương vật
chất và ý thức nên đã trả lời ý chí rất quan trọng nhưng các cô nhờ có ý chí mà
đã chiến thắng bằng những vũ khí đơn giản có trong tay. Thầy Bảo hỏi lại: vậy
chiến thắng là do vũ khí hay ý chí? Anh Trí vẫn loanh quanh vì anh nghĩ vũ khí
tốt mà không có ý chí thì cũng không thắng nên anh vẫn trả lời rằng vũ khí là
quan trọng nhưng vẫn cần ý chí. Thầy không hài lòng lắm, đáng lẽ nói ngay chiến
thắng bằng vũ khí rồi sau nữa mới là ý chí thì điểm cao hơn.
Chuyện
thi của anh Trần Duy Học
Anh
Học nhận được câu hỏi về các quy luật của phép biện chứng trong đó có “quy luật
phủ định của phủ định”. Thầy hỏi, anh trả lời nhưng có lẽ không rõ lắm nên thầy
Bảo hơi nóng lên và lấy bao thuốc lá ra bàn đặt mạnh xuống, sau đó lấy bao diêm
đặt lên bên trên bao thuốc lá – như muốn gợi ý cho anh Học rằng cái sau tốt hơn
thì phủ định cái cũ - nhưng anh Học không hiểu ý thầy và không trả lời được câu
hỏi đó. Về phòng anh vẫn ấm ức về gợi ý của thầy không rõ ràng. Bao diêm thì
sao tốt hơn gói thuốc được? Mãi sau anh nói: hay thầy gợi ý loại thuốc lá lớp để
trên bàn thi không đúng ý thầy, phải là Điện Biên[7] chứ không là Tam Đảo, Trường
Sơn nhỉ?
Chuyện
anh Liễu lớp KT20B
Còn
chuyện khác nữa là một hôm trong giờ giải lao, tôi vào lớp nhưng thấy mọi người
vẫn còn chưa vào. Lát sau thì mọi người kéo nhau vào nhao nhao nói chuyện về vụ
đánh nhau nào đó bên ngoài. Anh Liễu lớp KT20B vừa vào vừa nói to rằng, cho chúng
nó đánh nhau, đánh nhau là một kiểu đấu tranh giai cấp - động lực của sự phát
triển. Có đánh nhau mới phát triển được! Rõ ràng anh Liễu vẫn còn rất nhớ những
quan điểm về triết học.
[1] Hai nguyên lí là Mối liên hệ phổ biến và Nguyên lí phát triển
[2] Ba quy luật: Thống nhất và đấu tranh giữa các măt đối lập; Thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất; Quy luật phủ định của phủ định
[3] Sáu cặp phạm trù: Cái chung – riêng; Nguyên nhân – kết quả; Tất nhiên – ngẫu nhiên; Nội dung – hình thức; Bản chất – hiện tượng; Khả năng – hiện thực.
[4] Khi nói về sự phát triển xã hội, người ta dùng 2 khái
niệm: Phương thức sản xuất và Hình thái kinh tế xã hội. Cả hai khái niệm đều có
cái chung là sự thống nhất và mâu thuẫn trong quan hệ giữa lực lượng sản xuất với
quan hệ sản xuất, nhưng khi nói đến hình thái kinh tế - xã hội thì còn gắn thêm
kiến trúc thượng tằng của quan hệ sản xuất.
[5] Hai khái niệm này được Đại hội IV luôn nhấn mạnh, nhất
là trong các tác phẩm của Tổng Bí thư Lê Duẩn.
[6] Những khái niệm này ngày nay người ta nói khác đi chút trong các bài giảng triết học Mac – Lênin.
[7]
Thời ấy các lớp đều có thuốc lá và chè (móc câu) để trên bàn cho các thầy hỏi
thi. Nhớ lại thuốc lá hồi đó nhãn cao nhất Ba
Đình, Thăng Long dành cho cán bộ cao cấp, Thủ Đô dành cho cán bộ trung cấp, còn
Điện Biên, Tam Đảo, Trường Sơn là dành cho sơ cấp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét