Thứ Ba, tháng 7 29, 2025

Chuyện năm thứ nhất – Học và thi môn Triết học Mác - Lê nin


Môn học này có số tiết là 120, phần Duy vật biện chứng 60 tiết do thầy Trần Trường giảng và phần Duy vật lịch sử 60 tiết do thầy Thủy giảng.

Hồi đó chúng tôi được học triết học nhưng có thể nói không mấy ai hiểu về nội dung và tư tưởng của nó. Tôi lại vào học sau nên phần thầy Trần Trường đã dạy qua 8 tuần. Tôi cứ nghe giảng, chép bài nhưng đến khi ôn thi mới rõ nhiều điểm về môn học này. Dưới đây là những những điểm còn ghi nhớ trong kí ức.

1. Phần duy vật biện chứng do thầy Trần Trường giảng

Thầy Trần Trường khi đó tầm tuổi ngoài 50, người tầm thước với khuôn mặt to, hơi vuông, trán rộng hói cao. Khi giảng bài thầy khá tự tin, nụ cười như gắn với khuôn mặt khá giãn ra vẻ lạc quan tin tưởng chuyên môn, mắt mở to nhìn thẳng xuống lớp. Thầy cũng ít khi viết bảng nên ngoài lối “đọc – viết” thì thầy có rất nhiều thời gian dừng để minh họa và giải thích qua những ví dụ. Thầy có giọng nói rõ, khá to và tự tin, nhiều phần bài giảng như là thầy đã dạy cho nhiều lớp nên có vẻ như đã thuộc, nhất là các khái niệm. Buổi giảng của thầy khá sôi nổi vì có sự cuốn hút nhất định và những ví dụ khá sinh động về diễn đạt câu chuyện triết học thành những sự kiện trong cuộc sống. Nhiều trận cười trong lớp từ những minh họa của thầy.

Khi tôi vào lớp thì thầy đã giảng xong chương Vấn đề cơ bản của triết học Mác - Lênin và đang vào phần cuối của chương Vật chất và ý thức. Khi nghe giảng trên lớp tôi chỉ còn nắm được mấy ý cơ bản sau đây:

-       Vật chất có trước, ý thức có sau; vật chất quyết định ý thức, ý thức có tác động trở lại đối với vật chất.

-       Vận động là tuyệt đối, là thuộc tính cố hữu của vật chất với 5 loại vận động: cơ học, vật lý, hóa học, sinh học và xã hội.

Thầy nói về “đứng im là tương đối” với ví dụ rất sinh động. Đứng im chỉ là một trạng thái tạm thời, một dạng đặc biệt của vận động, xảy ra khi sự vật ở trạng thái cân bằng, ổn định trong một mối quan hệ và hình thức vận động cụ thể.

Chương tiếp theo là Phép biện chứng duy vật gồm Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật[1]. Ba quy luật cơ bản[2] của phép biện chứng duy vật và Sáu cặp phạm trù[3]. Về Hai nguyên lý, tôi còn nhớ:

-       Mối liên hệ phổ biến là mọi sự vật hiện tượng đều có mối liên hệ, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới.

-       Nguyên lý về sự phát triển: Phát triển (tiến hóa) là quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn hiện hơn, diễn ra theo đường xoáy ốc, có tính kế thừa…

Có lẽ trong thời gian học chúng tôi nhớ những minh họa của thầy Trường chuyển sự khô khan khó hiểu của triết học thành những thực tiễn vui nhộn. Tôi kể lại dưới đây một vài ví dụ để chúng ta có dịp ôn lại kí ức một thời:

-       Nói về “đứng im tương đối” thầy chỉ cái bục giảng nói nó đang đứng im trong quan hệ với cả giáo viên và lớp khi giảng bài và cả khi chúng ta ra về nó vẫn đứng im, tiết sau ta đến lại thấy nó…

-       Nói về “thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập”, ví dụ thầy nêu là cha mẹ muốn con học hành để phát triển, nhưng con muốn ăn chơi lêu lổng, rõ ràng là sự thống nhất là lợi ích của bố mẹ và con cái lâu dài, nhưng con cái lại chống đối…

-       Về quy luật “lượng đổi - chất đổi” thầy ví dụ hóm hỉnh: một em bé gái ta gặp khi em còn bé thì ta có thể nói chuyện với em, ẵm bế em trên tay, đưa em đi chơi… Nhưng chẳng hạn sau đó 10 năm sau ta gặp lại thì em bé khi xưa đã thành thiếu nữ xinh đẹp, ta không thể còn dám ẵm bế em nữa…

-       Về “phủ định của phủ định” thầy nói quả trứng nở ra con gà, không thể nở ra con vịt, nhưng từ quả trứng thành con gà, rồi thành đàn gà… nhất định cần sự phủ định của quả trứng đem ấp.

-       Thầy nói về cặp phạm trù “cái riêng - cái chung”: mỗi người là cá nhân riêng biệt, nhưng một nhóm người thì có cái chung, ví dụ chúng ta ở đây có cái chung là lớp KT20…

Đại loại thế, bài giảng của thầy có nhiều tiếng cười trong lớp nhưng không để lại nhiều ấn tượng sâu sắc về chuyên môn. Tôi nghĩ thầy cho rằng với 60 tiết giảng thì không thể nói được những điều cao siêu về triết học!

2. Phần duy vật lịch sử do thầy Thủy dạy

Thầy Thủy quê  xứ Quảng (không rõ Quảng Nam hay Quảng Ngãi). Thầy có vóc dáng gầy, thấp nhỏ, nhưng có giọng cao vút rất vang, bảo đảm cả phòng học 120 người nghe rõ dễ dàng. Các buổi lên lớp tôi luôn thấy thầy ăn mặc giản dị: một chiếc áo trắng không mới và quần silimi màu nâu đất có thắt lưng nhỏ rất cũ. Thầy đi đôi dép rọ nhựa kiểu quân đội hồi đó màu nâu sáng, không đi tất (dớ), rất ít khi thấy thầy đi giày. Tôi đoán thầy trước cũng là chiến sĩ hoặc cán bộ tập kết ra Bắc hồi 1954. Giờ giấc ra vào lớp đúng kẻng cũng như dáng đi khá nhanh nhẹn cho thấy phong cách gần với một thời bộ đội.

Khuôn mặt thầy có những nếp khóe mắt và miệng như tạo ra một nụ cười thường trực trên bộ mặt hồn hậu, khiêm tốn. Thầy ít viết bảng, đứng bục nhìn giáo án là chính nhưng qua giọng thầy chúng tôi rất dễ dàng biết phần phải chép hay phần giảng những ý của giáo án. Rất ít khi thầy tương tác với người học và cũng không thấy thầy bình phẩm gì theo kiểu liên hệ với cuộc sống khó khăn hiện hành.

Một chi tiết tôi còn nhớ rõ là khi viết bảng, tôi thấy thầy không phân biệt được chữ viết có dấu hỏi hay dấu ngã. Ví dụ thầy viết “lịch sữ”, “hạ tằng cơ sỡ”, “cũa cãi”, “giảy chết”… Có lẽ có người phát hiện ra lỗi nên thầy bảo: “Dân xứ Quảng không viết được dấu hỏi và dấu ngã vì khi phát âm đều thấy như nhau, cả thầy dạy tôi hồi nhỏ cũng không phân biệt được”.

Phần thầy dạy là triết học Mác - Lê nin về duy vật lịch sử. Khi học thì chắc ít ai hình dung được đầy đủ về tinh thần hay tư tưởng của nó, nhưng đại loại tôi vẫn nhớ rằng thầy nói về Hình thái kinh tế - xã hội[4], về quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người. Khi quan hệ sản xuất khi bị lực lượng sản xuất phá vỡ thì chuyển sang hình thái kinh tế xã hội mới. Lịch sử loài người là lịch sử thay thế của những hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, đến nay đã trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội.

Hình thái kinh tế - xã hội tư bản được thầy phân tích khá kĩ về tính chất của lực lượng sản xuất (máy móc và kĩ thuật), còn quan hệ sản xuất có bản chất là bóc lột nên mâu thuẫn giữa người lao động và giới tư bản trở nên gay gắt. Nhưng hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa thì thầy chỉ nói đây là quá độ lên chủ nghĩa cộng sản và ở chủ nghĩa cộng sản thì lực lượng sản xuất có thể tạo ra “của cải nhiều như nước chảy” và khi đó người lao động “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu”.

Một phần khác mà thầy Thủy dạy cũng lí thú khi thầy nói về cơ sở hạ tằng và kiến trúc thượng tằng (sau này người ta dùng từ “tầng” thay cho “tằng” – tôi nghĩ dùng tằng hay hơn, nếu dịch Hán tự sẽ là thượng tằng kiến trúc- hạ tằng cơ sở). Thầy nhấn mạnh hình thái ý thức xã hội như chính trị, đạo đức, pháp quyền, triết học, tôn giáo, nghệ thuật… thuộc kiến trúc thượng tằng được hình thành trên điều kiện nhất định của cơ sở hạ tằng…

Có chuyện mà tôi còn nhớ: thầy nói về tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, nhưng trong dân gian ý thức xã hội thông thường được hình thành từ thực tiễn chưa được hệ thống hóa. Ví dụ thầy đưa ra là, người dân Bắc có kinh nghiệm qua câu ca dao “Bao giờ cho tới tháng 3, Hoa gạo rụng xuống thì tra hạt vừng” – rõ ràng là kinh nghiệm mà không rõ về lí luận.

Về giai cấp và đấu tranh giai cấp thì tôi nghĩ mọi người đều còn nhớ những quan điểm chính: đấu tranh giai cấp là động lực của sự phát triển xã hội, khi xã hội có giai cấp thì có mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp…

Có 2 khái niệm hồi đó được học rất rõ ràng, nhưng nay ta không thấy trong các chương trình đại học nữa. Đó là “bạo lực cách mạng” và “chuyên chính vô sản”. Bạo lực cách mạng là quy luật phổ biến của mọi cuộc cách mạng, là “bà đỡ” của một chế độ xã hội cũ đang thai nghén trong lòng xã hội mới. Chuyên chính vô sản được coi là công cụ để giai cấp công nhân sử dụng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội[5]. Tôi được biết từ Đại hội VI (1986), Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã không dùng những thuật ngữ này trong tiến trình đổi mới đất nước. Và những quan điểm dưới đây được chúng tôi ghi nhớ cho đến ngày nay:

- Cách mạng vô sản sẽ nổ ra và thắng lợi ở khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền tư bản chủ nghĩa (Lênin).

- Chủ nghĩa đế quốc là chủ nghĩa tư bản “giãy chết”, là giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa đế quốc là đêm trước, phòng chờ của cuộc cách mạng xã hội của giai cấp vô sản (Lênin). 

Có thể nói là phần giảng của thầy Thủy tôi còn nhớ được nhiều hơn phần thầy Trường, hay vì tôi được nghe thầy Thủy dạy từ đầu, còn phần thầy Trường dạy tôi chỉ được nghe đoạn sau?

 

Ôn thi môn đầu tiên

 

Triết học là môn thi đầu tiên của chúng tôi, được biết là thi vấn đáp nên chưa ai trải nghiệm, vì thế mọi người học và ôn nghiêm túc lắm. Tự ôn được chừng 3 ngày thì có buổi phụ đạo – các thầy nói những nội dung trọng điểm cần nắm vững để thi. Nói chung cũng bớt được nhiều vấn đề “râu ria” phức tạp và cũng gọn được rất nhiều. Phòng tôi có thói quen là có những thảo luận trước khi ngủ. Anh Ngọc thường chủ trì nêu các vấn đề, mọi người trao đổi. Nhưng có những khái niệm coi như được cả phòng thuộc lòng như khái niệm vật chất, khái niệm giai cấp của Lênin và quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nay gặp lại mọi người trong Tổ 1, tôi hỏi thì không còn ai nhớ nữa - tất nhiên tôi vẫn còn nhớ. Dưới đây là 3 khái niệm[6] bọn trẻ trong phòng đều thuộc lòng hồi ôn thi.

“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan mà con người biết được là nhờ cảm giác. Cảm giác chép lại, chụp lại, phản ánh thực tại khách quan đó và chúng tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” (Lênin).

Khái niệm này hay bị quên đoạn sau “chúng tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”

“Cố nhiên, vũ khí phê bình không thể thay thế được sự phê bình bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất mà thôi, nhưng lý luận sẽ trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng” (Mác).

Tôi còn nhớ hồi đó Lê Cao Bính mới ra Hà Nội nên phát âm còn nặng tiếng Nghệ. Bính thuộc bài rất nhanh nhưng đọc khái niệm này thành “Cộ nhiên, vụ khỉ phê bình…”

“Giai cấp là tập đoàn người rộng rãi khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định, khác nhau về quan hệ của họ đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ của cải xã hội” (Lênin).

Khái niệm này mọi người hay lẫn lộn 4 cái khác nhau nên anh Ngọc đề nghị “nghị quyết 4 khác”: địa vị, quan hệ, vai trò, hưởng thụ cho dễ nhớ. 

Nhờ tự trao đổi và học hỏi nên phòng tôi ai cũng được “kiểm tra” kiến thức quan trọng về chuyên môn nên cũng khá yên tâm về thi sau 1 tuần ôn thi. Vấn đề là chưa ai trải nghiểm kiểu thi vấn đáp đại học bao giờ! 

 

Môn thi vấn đáp đầu tiên ngày 28-6-1976

Cần phải nhớ lại chút về cách thi vấn đáp hồi đó: mỗi môn thi thường bố trí 2-3 bàn hỏi thi. Mỗi bàn ít nhất 2 thầy, có khi 3 thầy (khi một số giáo viên đi dạy hết tiết sẽ về hỏi thi). Người thi được gọi vào bốc thăm câu hỏi và được chuẩn bị 15 phút trước khi lên trả lời. Mỗi lần gọi 5 người vào bốc đề theo danh sách trước bàn thi. Các thầy lần lượt gọi lên trả lời theo danh sách. Sinh viên trả lời chứng 5-7 phút là trao đổi vấn đáp: thầy hỏi – sinh viên trả lời, thường 20-25 phút/sinh viên. Sau khi người thứ nhất thi xong thì gọi tiếp người thứ 6 vào bốc đề. Như vậy người đầu tiên được chuẩn bị 15 phút nhưng người thứ 5 có khi phải ngồi hơn 1 giờ mới được gọi lên.

Cách thi này rất hay vì chắc chắn rõ được hiểu biết của sinh viên vì trả lời trực tiếp sẽ biết ngay sự chuẩn bị bài của họ vì không ai giúp gì được khi trả lời trước các thầy.

Việc thi tổ chức theo lớp nên lớp KT20A thi riêng, và ngày đó lớp KT20B thi môn khác.

Tôi được gọi vào đầu tiên trong lớp theo vần A (cả lớp KT20A có mình tôi vần A). Tôi được chuẩn bị 5 phút. Đề có 2 câu, một câu phần duy vật biện chứng, một câu phần duy vật lịch sử. Nay tôi không còn nhớ câu hỏi nhưng cả hai câu tôi đều thuộc vì đều có trong nội dung ôn tập sau buổi phụ đạo.

Tôi gạch những ý chính ra giấy nháp để trả lời, đại loại là tôi đã thuộc nên rất yên tâm về các ý cần trả lời mà không cần viết đầy đủ các ý đó trên tờ chuẩn bị. Thế là tờ giấy chuẩn bị chỉ có mấy ý ngắn.

Tôi được gọi lên bàn thầy Thủy và thầy Bảo. Là người đầu tiên và là lần đầu tiên được trả lời kiểu thi vấn đáp nên tôi rất run. Bàn thi kê sát cửa ra vào, phía sau các thầy bên ngoài cửa có rất nhiều người chen chúc nhưng im lặng nghe tôi trả lời và các thầy hỏi. Khi tôi trả lời, có lẽ chỉ mất chừng 5 phút là nói hết cả 2 câu. Thầy Bảo hỏi: còn gì nữa không? Tôi im lặng lo lắng và các thầy hỏi. Thầy Thủy hỏi một ý về nội dung tôi đã trả lời, chắc thầy muốn khẳng định xem tôi nắm được bài không. Còn thầy Bảo hỏi một ý có tính liên hệ, tôi trả lời nhưng có lẽ không rõ câu hỏi hoặc không trúng ý thầy nên thầy không đồng ý. Sau đó thầy hỏi một câu khác và tôi trả lời được, rồi các thầy bảo nộp bài. Tôi không nghĩ tờ chuẩn bị phải nộp nên khi đưa cho thầy, thầy Bảo nói: “Chỉ có mấy ý thế thôi à!” Hai thầy ghi kí hiệu gì đó vào danh sách thi và tôi ra mà không rõ là được bao nhiêu điểm. 

Cuối buổi chiều khi thi xong, cả 4 thầy thảo luận và đưa ra kết quả điểm thi. Ban cán sự lớp được vào chép điểm thi từng người. Các thầy về thì mọi người nhốn nháo vào hỏi, anh Hợp đọc điểm thi. Tôi được điểm 3/5. Có một số người được 4/5, trong đó phòng tôi có anh Hợp, anh Ngọc… Hình như không có ai phải thi lại (tức là dưới 3/5).

Thế là xong một môn thi thời đại học – môn thi đầu tiên và vấn đáp đầu tiên. Ai chắc cũng rút được những kinh nghiệm cho riêng mình. Bọn trẻ chúng tôi thì chắc chắn có vấn đề tâm lí nên hay run trước các câu hỏi của các thầy, chuyện này phải sau rất nhiều môn thi cũng không cải thiện mấy dù rất thuộc bài. Một ý khác là tôi thấy cần phải ghi ra tờ chuẩn bị càng dài càng tốt vì nếu quá ngắn thì rất dễ bị coi là không có gì để chuẩn bị?

Những chuyện sau khi thi

Chuyện anh Lê Xuân Trí trả lời câu hỏi

Sau khi thi ra ngoài thì tôi còn nhớ rất rõ những gì anh Lê Xuân Trí trao đổi với mọi người. Anh Trí được hỏi thêm về câu hỏi liên quan đến vật chất và ý thức, thầy Bảo hỏi anh rằng hồi chiến tranh giải phóng miền Nam, một nhóm các cô dân quân đã đánh lui quân địch hơn gấp đôi về quân số, vậy chiến thắng có phải là do ý chí của các cô không? Anh Trí đã lưỡng lự một lúc nhưng bỗng nhớ lại là “lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật chất mà thôi” trong chương vật chất và ý thức nên đã trả lời ý chí rất quan trọng nhưng các cô nhờ có ý chí mà đã chiến thắng bằng những vũ khí đơn giản có trong tay. Thầy Bảo hỏi lại: vậy chiến thắng là do vũ khí hay ý chí? Anh Trí vẫn loanh quanh vì anh nghĩ vũ khí tốt mà không có ý chí thì cũng không thắng nên anh vẫn trả lời rằng vũ khí là quan trọng nhưng vẫn cần ý chí. Thầy không hài lòng lắm, đáng lẽ nói ngay chiến thắng bằng vũ khí rồi sau nữa mới là ý chí thì điểm cao hơn.

Chuyện thi của anh Trần Duy Học

Anh Học nhận được câu hỏi về các quy luật của phép biện chứng trong đó có “quy luật phủ định của phủ định”. Thầy hỏi, anh trả lời nhưng có lẽ không rõ lắm nên thầy Bảo hơi nóng lên và lấy bao thuốc lá ra bàn đặt mạnh xuống, sau đó lấy bao diêm đặt lên bên trên bao thuốc lá – như muốn gợi ý cho anh Học rằng cái sau tốt hơn thì phủ định cái cũ - nhưng anh Học không hiểu ý thầy và không trả lời được câu hỏi đó. Về phòng anh vẫn ấm ức về gợi ý của thầy không rõ ràng. Bao diêm thì sao tốt hơn gói thuốc được? Mãi sau anh nói: hay thầy gợi ý loại thuốc lá lớp để trên bàn thi không đúng ý thầy, phải là Điện Biên[7] chứ không là Tam Đảo, Trường Sơn nhỉ?

Chuyện anh Liễu lớp KT20B

Còn chuyện khác nữa là một hôm trong giờ giải lao, tôi vào lớp nhưng thấy mọi người vẫn còn chưa vào. Lát sau thì mọi người kéo nhau vào nhao nhao nói chuyện về vụ đánh nhau nào đó bên ngoài. Anh Liễu lớp KT20B vừa vào vừa nói to rằng, cho chúng nó đánh nhau, đánh nhau là một kiểu đấu tranh giai cấp - động lực của sự phát triển. Có đánh nhau mới phát triển được! Rõ ràng anh Liễu vẫn còn rất nhớ những quan điểm về triết học.

 

 

 



[1] Hai nguyên lí là Mối liên hệ phổ biến và Nguyên lí phát triển

[2] Ba quy luật: Thống nhất và đấu tranh giữa các măt đối lập; Thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất; Quy luật phủ định của phủ định

[3] Sáu cặp phạm trù: Cái chung – riêng; Nguyên nhân – kết quả; Tất nhiên – ngẫu nhiên; Nội dung – hình thức; Bản chất – hiện tượng; Khả năng – hiện thực. 

[4] Khi nói về sự phát triển xã hội, người ta dùng 2 khái niệm: Phương thức sản xuất và Hình thái kinh tế xã hội. Cả hai khái niệm đều có cái chung là sự thống nhất và mâu thuẫn trong quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, nhưng khi nói đến hình thái kinh tế - xã hội thì còn gắn thêm kiến trúc thượng tằng của quan hệ sản xuất.  

[5] Hai khái niệm này được Đại hội IV luôn nhấn mạnh, nhất là trong các tác phẩm của Tổng Bí thư Lê Duẩn.

[6] Những khái niệm này ngày nay người ta nói khác đi chút trong các bài giảng triết học Mac – Lênin. 

[7] Thời ấy các lớp đều có thuốc lá và chè (móc câu) để trên bàn cho các thầy hỏi thi. Nhớ lại thuốc lá hồi đó nhãn cao nhất Ba Đình, Thăng Long dành cho cán bộ cao cấp, Thủ Đô dành cho cán bộ trung cấp, còn Điện Biên, Tam Đảo, Trường Sơn là dành cho sơ cấp.

Chủ Nhật, tháng 7 20, 2025

Đại học Nông nghiệp I đào tạo kĩ sư kinh tế thời chúng tôi học như thế nào?

Một lần nữa xin tặng các anh chị KT20A 

 

1. Đối tượng học

Ngành Kinh tế nông nghiệp các khóa trước 20 lấy đối tượng thi đại học khối A, năm 1975 lấy cả khối A và B. Những người thi khối B như tôi được học lấy bằng kĩ sư kinh tế là may mắn. Tôi cũng có ghi chép ở https://lehuuanhghichep.blogspot.com/2025/06/cuoc-song-sinh-vien-nhung-ngay-au-tien.html nói về buổi điểm danh cuối tuần tối chủ nhật, Thầy chủ nhiệm lớp tên Khôi nhắc đến sự tự hào được học Khoa Kinh tế, nhất là những người dự thi khối B.

2. Một chương trình có yếu tố độc đáo

Chương trình đào tạo đã nêu ở https://lehuuanhghichep.blogspot.com/2025/07/mot-chuong-trinh-ao-tao-oc-ao-va-sang.html có yếu tố độc đáo. Tính độc đáo ở chỗ chỉ có ở khóa này mà không có ở khóa khác. Đối với KT20 chúng tôi có được những trải nghiệm sau:

Thứ nhất, KT20A và KT20B có chuyến đi thực tiễn quan trọng là điều tra cơ giới hóa nông nghiệp tại Hải Hậu 4 tuần trước khi đi thực tập tốt nghiệp. Chuyến đi này phục vụ chương trình “quả bom cơ giới hóa nông nghiệp” của Đại hội IV do Tổng Bí thư Lê Duẩn thí điểm ở 2 huyện Nam Ninh và Hải Hậu (thuộc tỉnh Hà Nam Ninh). Có dịp tôi sẽ ghi chép đầy đủ hơn vì sau đó tôi được tiếp tục thực tập tốt nghiệp tại Hải Hậu 6 tháng cùng với các anh Dương Ngọc Đĩnh, Trần Hữu Giang và Nguyễn Văn Tường (anh Tường “cận” học KT19 nhưng đi thực tập và thi tốt nghiệp với lớp KT20A). Khi đó 4 người chúng tôi được coi như thành viên của Tổng cục trang bị kĩ thuật Bộ Nông nghiệp.

Trường ĐHNNI thường có nhiều hoạt động thực tiễn. Tất nhiên các cơ hội chỉ có cho từng khóa riêng biệt. Khóa 17 toàn trường được đi điều tra nông nghiệp Tây Nguyên do GS Lê Duy Thước, Hiệu trưởng phụ trách chương trình[1]. Đa số các anh chị Khóa 17 tất cả các ngành được “đặt cách”[2] ra trường vì được huy động đi điều tra từ khi chưa học hết chương trình đại học. Lớp KT18 cũng có một số anh chị được tốt nghiệp kiểu “đặc cách”.

Thứ hai, Được học Toán điều khiển học (tiếng Anh: cybernetics), nhờ đó chúng tôi có ý niệm về Phương pháp Đường găng hay  Sơ đồ mạng CPM, (tiếng Anh là Critical Path Method). Thầy Thanh dạy Toán nói rằng, đây là nội dung được dạy lần đầu tiên ở ĐHNNI. Sau đó thầy Thanh đi thi nghiên cứu sinh ở trường KTQD nên các khóa KT21 và KT22 không được học Toán điều khiển (tôi không chắc lắm về KT23).

Cũng là môn Toán, lần đầu tiên PTS Tô Cẩm Tú dạy cho KT20 môn toán xác suất (năm thứ 3). Khi đó thầy Tú vừa hoàn thành nghiên cứu sinh từ Nga trở về nhưng vẫn học thêm 1 kì toán (các khóa trước chưa được học môn này). Dù chỉ 45 tiết nhưng các nội dung và tư tưởng của môn học này rất quan trọng cho công việc của nhiều người trong chúng tôi sau này.

Thứ ba, Các hoạt động khác:

-       Một số sinh viên được huy động tham gia đổi tiền 1-5-1978 trên phạm vi toàn quốc. Lần đó, do ngày nghỉ 30-4 và 1-5 khá dài nên đa số sinh viên về quê. Nhà trường huy động những sinh viên có mặt ở trường đi thực hiện đổi tiền. Các anh lớp KT20B được huy động gồm anh Ngọ, anh Liễu, anh Đình, anh Hạ… Nghe nói sau vụ này anh Hạ vì sơ suất gì đó nên bị coi là vi phạm và sau phải thi tốt nghiệp với KT21.

-       Chuyện đi lao động công ích được huy động KT20 tại sông Tô Lịch cũng là điểm đáng nhớ. Chúng tôi được tham gia lao động nạo vét lòng sông để tạo nên hình hài sông Tô Lịch ngày nay, coi như một đóng góp xây dựng Thủ đô của Việt Nam.

 

3. Những điểm quan trọng của chương trình đào tạo kĩ sư kinh tế nông nghiệp

Tôi xin không đi vào phương pháp giảng dạy vì hồi đó kĩ thuật “thầy đọc - trò chép” là chuyện của mọi trường đại học chứ không phải chỉ có ở ĐHNNI. Lí do là không có giáo trình và công nghệ giảng dạy còn lạc hậu. Chuyện này ngày nay cơ bản bị “tiệt chủng” bằng nhiều công nghệ giảng dạy tiên tiến khác.

3.1 Học và thi như thế nào?

Các môn học khi đó được thiết kế các mức 30 tiết, 45 tiết, 60 tiết, 90 tiết, 120 tiết, 180 tiết, 240 tiết. Các môn từ 60 tiết trở lên là môn thi, dưới 60 tiết là kiểm tra. Môn thể chất và quân sự là kiểm tra (mặc dù quy đổi thì rất nhiều tiết).

Khóa KT20 có tất cả 19 môn thi – với 23 lượt thi (vì có những môn thi 2 lần: Nga văn, Toán, Kinh tế chính trị, TCQL XNNN). Không kể 3 môn thi tốt nghiệp là Chính trị Mác – Lênin (gồm kiến thức của Triết, KTCT và Lịch sử Đảng), Kĩ thuật nông nghiệp (kiến thức của nhiều môn trồng trọt và chăn nuôi) và Báo cáo đề án TTTN.

Việc học và thi được phân bố theo học kì. Các môn học được trang bị lần lượt theo khối kiến thức Cơ bản – Cơ sở - Chuyên môn một cách khá linh hoạt xen với thực tập nghề nghiệp nhiều mức độ.

Cách thi vấn đáp là chủ yếu, thi viết chỉ tổ chức trong trường hợp các bộ môn không đủ giáo viên hỏi thi. Thi vấn đáp thường diễn ra cả ngày cho mỗi môn học. Lớp có khoảng 60 SV, mỗi SV trả lời 20-30 phút, mỗi môn có 2 bàn hỏi, mỗi bàn thường 2 giáo viên (có khi 3) nên phải cả ngày mới xong.  

Các môn thi theo quy định có thời gian ôn từ 5-7 ngày, các môn kiểm tra thì không bố trí thời gian ôn. Tất cả các môn thi và kiểm tra nếu không đạt đều phải thi, kiểm tra lại, nhưng cơ bản đạt lần 2! Việc thi cử khá nghiêm túc và hồi đó không có chuyện “chạy điểm”. Vì thế mọi người lo lắng đều tập trung ôn thi. Trong “mùa thi” thì việc “xí chỗ” ngồi ôn thi ở giảng đường rất phổ biến: để ở bàn 1 quyển vở nháp chẳng hạn thì coi như chỗ đó đã có người ngồi! Ban đêm người ta chỉ mở CLB sinh viên, mà đa số mất điện giờ cao điểm nên ai cũng sắm một chiếc đèn dầu nhỏ để ôn thi. Nhìn vào giảng đường nóng bức mùa hè mà thấy đèn dầu sáng đỏ những phòng học cấp 4 trước KTX A1 mới biết sinh viên ham quý cái học và sự nghiêm túc của thi cử thời ấy! Trong sinh viên lan truyền thơ con cóc: “5 năm có 8 kì thi, một kì tốt nghiệp còn gì là Xuân!”

3.2 Kĩ sư kinh tế nông nghiệp phải học những môn cơ bản nào?

Các môn cơ bản gồm Toán – Lí – Hóa – Sinh. Toán giải tích (120t), Toán kinh tế (120t) gồm vận trù (60t) + điều khiển (60t) và Toán xác suất (45t) - tổng cộng Toán 285 tiết. Vật lý đại cương: 120t. Hóa (hữu cơ – phân tích – lí thuyết): 120t. Nguyên lí sinh học: 60t.

Tại sao học nhiều toán trong chương trình? Tôi thiển nghĩ người ủng hộ chương trình này GS Lê Duy Thước - Hiệu trưởng. Khi xưa GS đỗ tú tài toán xuất sắc mà xin chuyển từ Đại học Y Đông Dương sang Cao đẳng Nông Lâm rồi thành kĩ sư canh nông nổi tiếng[3]. Nếu lấy từ cuộc đời công việc của tôi thì trong các môn cơ sở như trên tôi chỉ thấy Vật lý đại cương là chưa sử dụng cho nghề nghiệp. Hay có lẽ do cái nghề của tôi vậy!

3.3 Môn ngoại ngữ

Cả trường chỉ học Nga văn, nhất là kĩ sư kinh tế. “Người cộng sản phải biết tiếng Nga, tiếng nói của Lênin vĩ đại” là câu nói (của ai đó) nổi tiếng thời đó trong giới trí thức cộng sản.

Môn Nga văn quy định như sau: mỗi tuần 2 tiết, năm thứ nhất kiểm tra, năm thứ 2 kì 1 kiểm tra, kì 2 thi vấn đáp. Năm thứ 3 kì 1 kiểm tra, kì 2 thi vấn đáp hết môn. Riêng 2 kì có thi được tăng số tiết lên 3 hoặc 4t/tuần. Như vậy kĩ sư kinh tế được học Nga văn 3 năm (khoảng 300t).

Thời đó các anh em mới tốt nghiệp phổ thông chúng tôi đều học khá tiếng Nga, nhất là về ngữ pháp. Nhưng vì thầy giảng tiếng Nga bằng tiếng Việt nên chúng tôi không thể nghe và nói được tiếng Nga. Vào cuối năm thứ 3 thì chỉ có thể đọc được sách chuyên môn tiếng Nga. Số anh em lớn tuổi thì chỉ mong qua môn tiếng Nga, may ra còn nhớ lơ mơ kiểu “vừa-đi-vừa-đá-vừa-chen” khi đọc từ giáo viên (преподаватель) hay “tình hình сейчас (seychas) có gì новый (nô-vưi)” tức là nửa Nga nửa Việt: tình hình hiện nay có gì mới!

Cách đào tạo đó chắc chắn đọc được tiếng Nga chuyên ngành dành cho kĩ sư, nhưng nếu nói và nghe được tiếng Nga thì phải học thêm rất nhiều.

3.4 Các môn chính trị

Tôi nghĩ chương trình này rất quan trọng cho kĩ sư kinh tế vì hiểu biết lí luận chính trị chính là nghề nghiệp. Khi đi thực tập giáo trình, tôi được biết câu: các anh chị là những người “đầu đội chính sách vai mang chứng từ” nên phải hiểu được lí luận.

Chương trình như sau: Triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, Kinh tế chính trị học (TBCN và XHCN) và Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam. Sau đó khi ra trường thi Môn Chính trị Mác -Lênin. Một chương trình học về lí luận chính trị khá nhiều và đầy đủ.

3.5 Các môn kiến thức cơ sở

Kiến thức cơ sở thuộc nhóm môn học được trang bị để có cơ sở đi sâu vào các môn chuyên môn. Nhiều nhất là kiến thức ngành trồng trọt, từ đại cương đến chuyên khoa, còn có thêm cả bảo quản chế biến. Kiến thức ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm, thú y cơ bản cũng được học vừa đủ, nhưng ít hơn trồng trọt.

Cơ khí nông nghiệp được trang bị kiến thức về động lực ô tô - máy kéo, nhiều loại máy nông nghiệp như làm đất, bơm nước, chế biến, ấp trứng, thu hoạch và một phần về điện nông nghiệp.

Thời lượng các môn học kĩ thuật nông nghiệp khá lớn, đủ để hiểu biết cơ bản các cây, con trong thực tế sản xuất. Khi đi thực tập giáo trình các môn học chúng tôi rất dễ dàng quan sát và học hỏi được quy trình sản xuất các đối tượng này. Công việc người kĩ sư kinh tế là phải biết hết các đối tượng sản xuất.

3.6 Các môn chuyên môn

Tôi tạm coi môn Địa lí kinh tế thuộc kiến thức cơ sở, như vậy chỉ còn có 7 môn chuyên ngành gồm: Kinh tế nông nghiệp, Thống kê nông nghiệp, Kế hoạch nông nghiệp, Kế toán nông nghiệp (HTX và NTQD), Tài chính - Tín dụng xí nghiệp nông nghiệp và Tổ chức quản lý xí nghiệp nông nghiệp (HTX và NTQD). Các môn này được học khá chi tiết và cụ thể. Tất cả các nội dung học 7 môn đều có phần thực tập nhóm môn học (gọi là thực tập giáo trình).

Thực tập giáo trình 12 tuần đi thực tế (2 lần) rất bổ ích không chỉ cho quan sát thực tế mà còn được trực tiếp bắt tay vào các nhiệm vụ của cơ sở thực tập.

3.7 Giáo dục thể chất

Về đào tạo thể lực thanh niên đại học gồm: Điền kinh (năm thứ nhất) học chạy 1000m. chạy 100m; Thể dục dụng cụ (kì 1 năm thứ 2) học nhảy xa, nhảy cao, nhảy ngựa, xà đơn, xà kép. Kì 2 năm thứ hai là Thể thao đồng đội học bóng chuyền.

Điền kinh phải bảo đảm đạt tiêu chuẩn vận động viên hạng 3: chạy 1000m (2,5 vòng sân vận động): không rõ mấy phút? Chạy cự li ngắn 100m: tiêu chuẩn 15s. Như vậy chương trình bảo đảm tính toàn diện: nâng cao thể lực, khéo léo với dụng cụ đồng thời là thể thao đồng đội.

3.8 Lao động nghề nghiệp 12 tuần

Năm thứ nhất có 8 tuần lao động làm quen nghề nghiệp qua các công việc làm nông diễn ra tại trường. Hàng ngày ra Trại Thực tập Thí nghiệm (TTTN) nhận công việc cho lớp hoặc cho một nhóm người theo yêu cầu nhân lực của Trại. Nói chung toàn những công việc mà những thanh niên nông thôn như tôi không có gì lạ. Tổ 1 có anh Nguyễn Ngọc Minh là con em công nhân mỏ Mạo Khê và anh Trần Duy Học là dân phố Nam Sách có thể là mới chăng?

Năm thứ 2 mỗi kì có 2 tuần lao động theo thời vụ huy động của Trại TTTN. Từ cuối học kì 1 năm thứ hai chúng tôi được lao động theo hình thức mới: Thầy Chủ nhiệm Khoa Phan Trọng Đỉnh đề nghị nhà trường khoán cho các lớp kinh tế làm thí điểm (bắt chước một phần của Bí thứ Kim Ngọc)[4]. Mỗi lớp được giao một số diện tích trồng lúa (nhưng chỉ cấy, chăm sóc và thu hoạch, phơi riêng), còn các khâu như mạ, làm đất, tưới nước và bón phân thì không giao cho lớp. Nhờ chuyện này chúng tôi được bữa liên hoan cả lớp rất đáng nhớ hồi ở KTX B3 (tôi sẽ có dịp ghi chép kĩ hơn sau này). Đây cũng được coi là công việc sáng tạo vì khi đó ngoài xã hội đang bắt đầu có chuyện khoán trong nông nghiệp.

3.9 Huấn luyện quân sự - dân quân tự vệ

Mỗi sinh viên có 2 tháng huấn luyện quân sự ở 2 năm học đầu. Đầu tiên là kĩ thuật đội ngũ để thể hiện sức mạnh và tính tập trung kỉ luật của người lính. Sau đó là các kĩ thuật tập kích kiểu trườn. bò, lê, vận động giao thông hào, ném lực đạn. Cuối cùng là xạ kích và bắn đạn thật (tại trường bắn Từ Sơn). Tôi còn nhớ hồi đó Cao Ngọc Đức bắn được 30/30 điểm, còn tôi chỉ được 3 điểm 8 (thiếu 1 điểm để trở thành loại giỏi).

Huấn luyện quân sự là quy định bắt buộc phải đạt mức độ lực lượng dự bị để có thể bổ sung ngay cho chiến đấu khi cần.

 

3.10. Tổng hợp phân tích các môn học toàn khóa và một vài nhận xét đánh giá

 

Số môn           Số tiết và %

Cơ bản                         6                      585  (21,2%)

Cơ sở                           9                      660  (24,0%)

Chính trị                      3                      420  (15,3%)

Chuyên môn               7                      680  (24,7%)

Nga văn                       1                      255  (9,3%)

Thể dục                       1                      150  (5,5%)

Quân sự                       1                      2 tháng

 

Nhận xét đánh giá cơ bản

Sự giản dị, bình dân và nghiêm túc của chương trình đào tạo

Đây là sự nghiêm túc nói chung cho tất cả các ngành học, tôi nghĩ thế.

Người dạy: giản dị, thực hiện đúng giáo trình, giáo án. Tuy lối dạy “một chiều” thời đó không có tương tác với người học như bây giờ nhưng giáo viên rất ít “ra oai” khoe khoang, trái lại rất khiêm tốn, ít phê phán kêu ca, phàn nàn chế độ - dù ai cũng khó khăn và nghèo. Sinh viên rất ít tiếp cận và gần gũi các giáo viên, nhưng đều coi giáo viên là những vị có học thuật cao và rất kính trọng, ngưỡng mộ.

Người học: cần cù, chịu khó, chấp nhận. Thái độ chấp nhận thời đó tôi cho là điểm yếu nhất của người học vì không dám tranh luận, phản biện chuyên môn, ngay cả đối với những giáo viên trẻ. Tất nhiên giảng dạy lối “một chiều” dập hết tranh luận. Đa số nghĩ lại đúng – sai chỉ khi trải nghiệm thực tế công tác sau này.

Đánh giá thi cử: cơ bản đạt nghiêm túc, khách quan, phản ánh đúng sức học và ôn thi của cá nhân sinh viên. Tất nhiên – tôi nghĩ – mỗi người đều có những vấn đề chưa hẳn hài lòng nào đó với thi cử, nhất là thi vấn đáp. Có nhiều giáo viên đặt câu hỏi không rõ ràng cũng như nêu cho sinh viên những vấn đề không sát với nội dung đề thi mà sinh viên được yêu cầu trả bài. Ngoài ra, tâm lí thi cử của sinh viên không tốt nên lo sợ thầy hỏi nhiều hơn bĩnh tĩnh mạch lạc trả lời câu hỏi.

Học và thực hành theo chính sách và chế độ quy định

Chúng tôi được học và thực hành về chuyên môn tất cả những gì đang xảy ra trong thực tế. Giáo viên dạy những môn như kinh tế nông nghiệp, kế toán, thống kê, tài chính, kế hoạch, tổ chức quản lý… đều nêu rõ các chính sách hiện hành, đặc biệt các các quy định chi tiết (gọi là chế độ). Ưu điểm của lối giảng dạy này rất tốt cho người học khi đi thực tập sẽ thấy ngay những điều mình học trong thực tiễn HTX và NTQD và nhờ đó có thể làm được ngay khi tốt nghiệp đại học.

Hạn chế của lối dạy này là sự thay đổi của thực tiễn thường quá nhanh nên sau khi ra trường người học phải tìm hiểu chính sách và chế độ mới. Nói chung thường xuyên lạc hậu “một nhịp” so với thực tiễn – chỉ đúng khi đi thực tập môn học, nhưng đã “lạc hậu” khi đi làm!

Người học cơ bản khó tổng kết được lí luận căn bản (nguyên lí) từ những chính sách, chế độ (vì chính sách và chế độ chỉ là những biểu hiện của nguyên lí). Đây là thử thách cho sự thành đạt của những cán bộ biết vận dụng chính sách qua kinh nghiệm nhiều năm công tác.

Học và đọc sách

Khi đi học, chúng tôi đều được làm Thẻ thư viện nhưng khi lên mượn sách chúng tôi mới thấy sự nghèo nàn của thư viện. Khi hỏi mượn giáo trình – rất ít giáo trình, cơ bản chỉ có bài giảng in rô-nê-o. Ngoài ra việc thi bám theo những nội dung giáo viên đọc trên lớp nên thực ra không có nội dung gì cần tham khảo khác.

Khi học môn Kinh tế Chính trị phần XHCN, Thầy Cấn nói thư viện trường ta là thư viện có 5 vạn đầu sách rất đáng tự hào (khi đó thấy Cấn mới được đi tham quan các trường đại học phía Nam về). Tôi cũng thường xuyên lên thư viện nhưng chủ yếu chỉ mượn được một số sách văn học ở năm thứ nhất, sang năm thứ 2 thì không còn nữa. Nhưng từ năm thứ 3 và 4, tôi lại tiếp cận được với một số sách của phía Nam, đặc biệt các sách của chế độ Sài Gòn do Vũ Quốc Thúc biên soạn[5] về nền kinh tế và chính sách tiền tệ phía Nam. Tài liệu in kiểu rô-nê-ô bìa xanh rất dày, nhiều tập mà tôi vẫn còn rất nhiều ấn tượng về cách biên tập – nhất là đánh giá tài nguyên về tây Nguyên, Đồng bằng sống Cửu Long…  

Sau này tôi được biết rõ thêm về những nội dung giáo trình, bài giảng của giáo viên. Thì ra đều cơ bản được dịch từ tiếng Nga qua các sách của các trường đại học Liên Xô. Từ sau năm thứ 3, tôi cơ bản đọc được tiếng Nga chuyên môn, tôi thấy rất lạ là các sách của Liên Xô khi ấy cũng viết theo chế độ Nông trang tập thể và Nông trường quốc doanh và một số nội dung như khấu hao tài sản cố định, tổ chức chăn nuôi gia súc… khá giống với những gì chúng tôi được học. Thế mới biết vấn đề “mô hình chế độ kinh tế tập trung – bao cấp” được sao chép và lan truyền rất mạnh giữa các nước XHCN.

Được trực tiếp thực hiện các công việc thực tiễn

Đây là cách học đáng trân trọng bậc nhất của người kĩ sư kinh tế nông nghiệp. Thực tập giáo trình là được tìm hiểu thực tiễn để so sánh với những điều được học, nhưng quan trọng hơn là đều được trực tiếp tham gia vào các công việc quản lý. Lần thực tập 4 tuần ở các HTX huyện Gia Lâm, chúng tôi được tham gia thực hành chế độ kế toán HTX (43 tài khoản) và trực tiếp gặt điểm thống kê năng suất lúa. Lần thứ 2 tại NTQD Mộc Châu 8 tuần, chúng tôi được trực tiếp làm kế hoạch cho các đội, xưởng sản xuất và quan trọng hơn là được nghe Giám đốc Nguyễn Tài Anh nghe báo cáo và duyệt kế hoạch từng đơn vị. Vị giám đốc to lớn nói năng khàn khàn rất có uy tín thời đó đã giúp chúng tôi hiểu được những gì thực tế đang xảy ra mà không có giáo viên nào dạy nổi. Hàng năm, cứ vào quý 4 là NTQD Mộc Châu đón sinh viên kinh tế nông nghiệp như một sự kiện – sinh viên sẽ giúp các đội - xưởng làm kế hoạch cho năm tiếp theo[6]. Cứ như chuyện không có sinh viên kinh tế ĐHNNI thì NTQD Mộc Châu không ai làm được kế hoạch!

Tôi đánh giá rất cao chương trình đào tạo kĩ sư kinh tế nông nghiệp ở điểm đưa người học vào thực tiễn – từ giáo trình bài giảng vào cuộc sống sinh động của tổ chức HTX và NTQD – đơn vị kinh tế nông nghiệp cơ bản trong thời bao cấp oai hùng!

 

 

 

 

 

 

 



[1] GS Lê Duy Thước từng là kĩ sư canh nông Đông Dương, xem thêm tại 

https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Duy_Th%C6%B0%E1%BB%9Bc#:~:text=L%C3%AA%20Duy%20Th%C6%B0%E1%BB%9Bc%20sinh%20t%E1%BA%A1i,B%C3%A0ng%20(ph%E1%BB%91%20H%C3%A0ng%20Tr%E1%BB%91ng). Sau này GS là Chủ nhiệm chương trình nhà nước Xây dựng cơ sở khoa học của quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên (1984–1988).

[2] Đặc cách: cách làm đặc biệt được chấp nhận

[3] Xem thêm tại https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA_Duy_Th%C6%B0%E1%BB%9Bc#:~:text=L%C3%AA%20Duy%20Th%C6%B0%E1%BB%9Bc%20sinh%20t%E1%BA%A1i,B%C3%A0ng%20(ph%E1%BB%91%20H%C3%A0ng%20Tr%E1%BB%91ng)

[4] Bây giờ nhìn lại mới thấy ý tưởng này hay. Kim Ngọc thì nêu chuyện khoán từ những năm 1960s, nhưng 1977-1978 thì chỉ có Đoàn Xá, Kiến Thụy Hải Phòng khoán chui. Còn CT100 thì ra đời năm 1981 và NQ10 thì mãi 1988 mới có. Xem thêm về Kim ngọc tại https://vi.wikipedia.org/wiki/Kim_Ng%E1%BB%8Dc  

[6] Đây là chuyện có thực. Sau này tôi nhiều lần tham gia hướng dẫn TTGT ở Mộc Châu, tôi mới rõ tình cảm của cán bộ và công nhân ở các đội và phòng ban quý trọng sinh viên Khoa Kinh tế nông nghiệp ĐHNNI như thế nào. Họ luôn dành phần xây dựng kế hoạch hàng năm cho sinh viên. Có nhiều đội cho sinh viên trực tiếp báo cáo kế hoạch với Giám đốc tài Anh. Khóa KT27 tôi đã chứng kiến một sinh viên tức mà khóc trước mặt Giám đốc vì ý kiến của mình bị bác bỏ.

Thứ Năm, tháng 7 17, 2025

Một chương trình đào tạo độc đáo và sáng tạo (!)


Chương trình đào tạo là chuyện luôn thay đổi – thay đổi theo các tham chiếu của hệ thống kiểm định, theo yêu cầu thời cuộc…

Dưới đây là một thực tế về chương trình đào tạo độc đáo và rất sáng tạo: có tiêu chuẩn học thuật, có hoạt động thực tiễn nghề nghiệp và ngoại khóa đáp ứng các nhu cầu xã hội (lao động công ích đào vét sông Tô Lịch, đổi tiền 1-5-1978, điều tra cơ giới hóa nông nghiệp tại Hải Hậu 1979) .

Các ghi chép tiếp theo tôi sẽ đánh giá chi tiết chương trình này qua trải nghiệm của bản thân tôi cùng tập thể lớp KT20A. Càng ngẫm nghĩ tôi càng thấy giá trị quan trọng của một chương trình đào tạo kĩ sư kinh tế nông nghiệp rất có ích cho chúng tôi trong điều kiện đất nước sau chiến tranh nghèo đối.

Tôi có hầu hết chứng cứ của chương trình này vì những ghi chép còn sót lại của tôi từ những năm học đại học và những thma khảo sau này khi tôi có nhiều thời gian công tác tại trường.

 

Chương trình đào tạo đại học kĩ sư kinh tế nông nghiệp (1975-1980) tại ĐHNNI

Thời gian học: 4,5 năm


 Năm thứ nhất (1975-1976): tổ chức 1 kì thi

Các môn thi:

Triết học Mác – Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử)

Nguyên lí sinh học

Toán giải tích

Hóa (hữu cơ-phân tích-lí thuyết)

Các môn kiểm tra:

Nga văn

Thể dục (điền kinh)

Ngoại khóa:

Lao động nghề nghiệp tại trường 8 tuần

Đi lao động công ích (xây dựng Thủ đô) trước khi vào năm thứ 2: nạo vét sông Tô Lịch: 2 tuần

 

Năm thứ hai (1976-1977): tổ chức 2 kì thi 

Các môn thi kì 1:

Vật lí đại cương

Kinh tế chính trị 1 (phần Tư bản chủ nghĩa)

Toán (vận trù-điều khiển)

Các môn kiểm tra kì 1

Nga văn

Thể dục (dụng cụ)

Ngoại khóa:

Lao động nghề nghiệp tại trường 1 tuần

 

Các môn thi kì 2:

Địa lí kinh tế

Kinh tế chính trị 2 (phần Xã hội chủ nghĩa)

Nga văn (lần 1)

Trồng trọt đại cương

Các môn kiểm tra kì 1

Thể thao đồng đội (bóng chuyền)

Quân sự lần 1 (1 tháng): Học đội ngũ, vận động trong chiến hào ném lựu đạn, học lí luận quân sự

Ngoại khóa:

Lao động nghề nghiệp tại trường 1 tuần

 

Năm thứ ba (1977-1978): tổ chức 2 kì thi

 

Các môn thi kì 1:

Kinh tế nông nghiệp

Trồng trọt chuyên khoa

Các môn kiểm tra kì 1

Rau quả

Nga văn

Toán xác suất

Quân sự lần 2 (1 tháng): Học xạ kích, bắn đạn thật

Ngoại khóa:

Lao động nghề nghiệp tại trường 1 tuần

 

Các môn thi kì 2:

Thống kê nông nghiệp

Kế toán nông nghiệp

Cơ khí nông nghiệp

Nga văn (lần 2)

Các môn kiểm tra kì 2

Bảo quản chế biến

Công cụ tính

Thực tập giáo trình 1

Các môn học thống kê NN, kế toán NN 4 tuần tại Gia Lâm 

Ngoại khóa:

Lao động nghề nghiệp tại trường (khoán cả lớp 1 vụ ruộng lúa)

1-5-1978 huy động SV tham gia đổi tiền (số SV ở trường  không về nghỉ 1-5)

 

Năm thứ tư (1978-1979): tổ chức 2 kì thi 

Các môn thi kì 1:

Kế hoạch nông nghiệp

Chăn nuôi đại cương

Tổ chức quản lý xí nghiệp nông nghiệp (lần 1)

Các môn kiểm tra kì 1

Thú y cơ bản

 

Các môn thi kì 2:

Tổ chức quản lý xí nghiệp nông nghiệp (lần 2)

Tài chính – tín dụng xí nghiệp nông nghiệp

Lích sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Thực tập giáo trình 2

Các môn học kế hoạch NN, tài chính, TCQLXN 8 tuần tại NTQD Mộc Châu

 

 

Năm thứ 5 (1979-1980) 

Ngoại khóa:

Đi điều tra Chương trình Cơ giới hóa nông nghiệp tại Hải Hậu 1 tháng

 

Thực tập tốt nghiệp (6 tháng): tại các địa phương theo phân công của BCN Khoa

 

Thi tốt nghiệp: tháng 4-tháng 5/1980

Chính trị (Lí luận Mác - Lênin)

Bảo vệ đề án tốt nghiệp

Môn kĩ thuật nông nghiệp

Học chính trị cuối khóa: 1 tuần

 

Trước khi phân công công tác

Số đi khoán quản các địa phương

Số học Sĩ quan dự bị (30/6-7/10/1980) và một số đi bộ đội (15/12/1980)