Chủ Nhật, tháng 7 14, 2024

Phân hệ phái, chi, tiểu chi trong Dòng họ trong nông thôn

1. Hệ thống phân cấp theo sinh kỳ phát tộc

Theo thời gian, Dòng họ cứ nối dài sự tăng trưởng về số hộ, khẩu và mở rộng nơi cư trú. Để theo dõi được sự liên kết và phát triển Dòng họ cần tổ chức hệ thống phân chia thành các cấp. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Việt dựa trên quan niệm "thủy hữu nguyên, mộc hữu bản" nghĩa là nước có nguồn, cây có gốc để chia hệ thống thành 2 cấp chính là phái và chi. Phái (nhánh sông): nước chảy từ nguồn chia thành nhiều nhánh sông nhỏ. Chi (cành cây): mọc từ gốc, chia thành nhiều cành con.

Việc liên kết Dòng họ cứ phát triển mãi sẽ phải mở rộng hệ thống phân cấp. Những Dòng họ có phả tới 20 - 30 đời có thể dùng đến Phái - Tiểu phái - Chi - Tiểu chi, nhưng nếu đến 50-60 đời thì việc phân cấp rất phức tạp vì phải chia thêm các cấp nhỏ hơn. Sự quá phức tạp đó bắt buộc phải hình thành sinh kỳ mới tức là đến mức chi tiết nào đó thì hệ thống phân cấp cũ sẽ phải tạo thành hệ thống mới. Hệ thống mới sẽ lấy cấp phân chia cuối của sinh kỳ cũ làm gốc (đời khởi tổ) cho sinh kỳ mới.

Theo Phạm Thúc Hồng[1], một sinh kỳ phát tộc chia theo 12 cấp cho mỗi sinh kỳ như sau: 1/ Phái → 2/ Phân Phái  → 3/ Tiểu Phái → 4/ Chi → 5/ Phân Chi → 6/ Tiểu Chi → 7/ Tiết → 8/ Phân Tiết → 9/ Tiểu Tiết → 10/ Diệp → 11/ Phân Diệp → 12/ Tiểu Diệp. Hệ thống tiếp theo lấy cấp Tiểu Diệp để thành Thủy Tổ cho sinh kỳ 2...

Như vậy, theo lý thuyết, một sinh kỳ có 12 cấp, nếu phát triển Dòng họ thuận lợi thì khoảng 60 đời, tức khoảng 1200 – 1500 năm sẽ hết sinh kỳ thứ nhất[2]. Trong thực tế khó có Dòng họ nào tạo ra được phả liên quan 50-60 đời. Ngay cả ngọc phả, thế phả, các triều đại cũng chỉ kéo dài khoảng 300 – 400 năm. Ở Việt Nam, các Dòng họ có phả lâu đời nhất cũng chỉ khoảng 50 đời và thường rất hiếm. Các phả lớn ở Việt Nam đều có hiện tượng phân hệ sau một số đời (thường sau 4-5 đời). Phái, chi hay ngành (nhành) là tên gọi của các cấp không nhất thiết thống nhất mà theo tập tục địa phương. Chẳng hạn, họ Vũ[3] sau 5 đời thì có ngũ chi, rồi bát phái, họ Phạm[4] ở Đan Loan đến Đời Thứ 11 có 3 lần phân chi...

2. Sự hình thành đơn vị thờ cúng

Một đơn vị thờ cúng được hiểu là một tập hợp của những người cùng Dòng họ (cùng huyết thống) trong một địa phương do người dòng trưởng giữ vai Tộc trưởng tổ chức, cùng thống nhất các quy định thờ cúng và sinh hoạt trong Dòng họ. Các quy định được thống nhất trên cơ sở phong tục, truyền thống về phân phái, phân chi, tế lễ, Từ đường, mồ mả...

Tổ chức thờ cúng theo phái hoặc chi là những quy ước riêng của từng Dòng họ khi có những điều kiện nhất định, nhất là trường hợp có một số gia đình tách khỏi nơi cư trú cũ của Dòng họ để lập nghiệp ở địa phương mới. Các phái, chi khi quần tụ và phát triển mạnh ở nơi cư trú mới sẽ trở thành đơn vị tín ngưỡng độc lập, tổ chức thờ cúng tổ tiên theo truyền thống, cải biên truyền thống bằng những quy định mới phù hợp hơn với phong tục nơi cư trú mới về từ đường, mồ mả, gia quy... Tuy nhiên, khi Dòng họ cư trú ổn định và lâu đời trong một địa phương thường quy tụ tại Từ đường của người giữ vai Tộc trưởng.

Việc theo dõi và hình thành tộc phả, gia phả sẽ ngày càng phức tạp khi các Dòng họ có nhiều đời, nhiều hộ và nhiều nơi cư trú. Các quy ước trong phả được hình thành và phân chia hệ thống tùy theo điều kiện của từng Dòng họ. Không có sự thống nhất nào có thể hợp lý và tạo được mẫu mực cho mọi Dòng họ. Sự sáng tạo và những điều kiện thể hiện của mỗi Dòng họ trở thành sự đa dạng phong phú của văn hóa, được coi là những khảo cứu, tra cứu có tính lịch sử của dân tộc, các địa phương... Các khác biệt đó cho đến nay thấy ở sự phân hệ (tên gọi các cấp, quy định các đời) không thống nhất ở các phả.

3. Khảo cứu cội nguồn, khát vọng hợp phả

Do những biến cố trong lịch sử (chiến tranh, loạn lạc, thiên tai, cư trú...) việc nối tiếp của một Dòng họ trong quá khứ không được ghi chép liên tục và đầy đủ. Chính vì vậy kết nối phả đời sau với các đời trước, việc sánh chiếu các phả ở các địa phương khác nhau là chuyện phức tạp muôn thuở và luôn có sự băn khoăn, nghi hoặc của hàng trăm giả thuyết khi bàn luận hợp phả. Đó là chưa kể những biến cố phải "mai danh ẩn tích, đổi tộc thay tên" trong nhiều trường hợp vì sự sinh tồn. Hợp phả luôn là những giả thuyết gắn với truyền ngôn hơn là các chứng cứ trong thực tế. Khi cư trú tại một địa phương, các dòng tộc phát triển mạnh lên sẽ gặp bế tắc về sinh kế, do đó di cư tìm nguồn sống mới tạo ra sự phát triển các phái, các chi của Dòng họ tại nơi cư trú mới. Điều kiện sinh kế mới và sự xa cách với nơi cư trú cũ lâu ngày làm cho việc hợp phả trở nên khó khăn. Sau nhiều trăm năm sự liên lạc có thể không còn nữa làm mất đi sự liên kết Dòng họ. Đó cũng là sự phát triển tất yếu của xã hội và lịch sử. Do vậy, dù có cố gắng đến mấy và dù công nghệ phát triển đến đâu chăng nữa thì mỗi người, mỗi gia đình, mỗi Dòng họ đều có cội nguồn, nhưng sự theo dõi và liên kết chỉ có hạn. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã có cội nguồn các vua Hùng với truyền thuyết "100 trứng" tượng trưng cho mọi người trong nước đều cùng một gốc, đều sinh trong một bọc nên gọi nhau bằng đồng bào (cùng bọc).

Khảo cứu cội nguồn là khát vọng chính đáng của mỗi Dòng họ. Từ những giả thuyết, những truyền ngôn, những văn tự lưu giữ... mà nhiều Dòng họ đã lần tìm ra cội nguồn phát tích. Tác dụng to lớn của những khảo cứu này là hiểu biết về tổ tiên, mở mang quan hệ Dòng họ, nâng cao niềm tự hào về Dòng họ, quê hương, đất nước. Mặc dù chứng tích có thể không nhiều nhưng sự bao dung, đồng cảm, chấp nhận thông tin cội nguồn luôn là những tín hiệu tích cực trong khảo cứu tổ tiên trên tinh thần "uống nước nhớ nguồn" của mỗi người con trong Dòng họ. 



[1] Nguồn: Phạm Thúc Hồng: Gia phả chữ Hán. Truy cập ngày 15/6/2021 tại  https://hophamvietnam.org/gia-pha-chu-han-va-gia-pha-thoi-nay

[2] Nếu một Dòng họ phát triển nhanh liên tục thì khoảng 3-5 đời sẽ cần một lần phân cấp. Trường hợp các nhánh không phát triển nhanh được là do nhánh có ít con trai hoặc có nhiều người vô tự (không có người nối dõi). Khi đó có thể phải 5-7 đời mới có một lần phân cấp. Mỗi sinh kỳ có 12 cấp tức là cần 36-60 đời, thậm chí tới 72 đời cho những dòng chậm phát triển (tức 12 cấp × 3 đời/cấp = 36 đời, 12 cấp × 5 đời/cấp = 60 đời, 12 cấp × 7 đời/cấp = 72 đời). Mỗi đời thông thường trung bình 20-25 năm. Vậy 36 đời tương đương 720-900 năm; 60 đời tương đương 1200-1500 năm và 72 đời tương đương 1440-1800 năm. 

[3] Theo tài liệu "Vũ tộc thế hệ sự tích" của Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Thế giới, 2004: Phả Dòng họ Vũ Mộ Trạch  ghi được tới 35-40 đời, gồm ngũ chi, bát phái.

[4] Theo Phạm Đình Hổ: Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả. Trần Thị Kim Anh giới thiệu và chuyển ngữ. NXB Văn học, 2019 (trang 26).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét