Nhân 86 năm ngày mất ông nội tôi 28/7/1939 (Kỉ Mão) - 28/7/2015 (Ất Tỵ). Các tư liệu được trích tại Phúc Ấm Lê Hữu tộc tôi đã viết 2021
1. Thông tin trang phả
1.1 Nguyên văn
Trang phả của ông và dịch nguyên văn
1.2 Dịch nghĩa
Tộc trưởng Đời Thứ tám
Lê Hữu Đát, tên tự là Đạt, sinh năm Quý Mùi, mất 28-7 Kỷ Mão.
Vợ là Nguyễn Thị
Trạc, sinh năm Canh Thìn, mất 1-11 năm Đinh Sửu.
Sinh hạ 3 trai 2 gái:
1/ Lê Hữu Nhạn, trưởng
nam, sinh 4 tháng Giêng năm Ất Tỵ.
2/ Lê Thị Vị, sinh năm
Mậu Thân.
3/ Lê Hữu Chế, sinh
20-10 năm Đinh Tỵ.
4/ Lê Thị Vệ sinh năm Canh
Thân.
5/ Lê Hữu Độ, sinh 10-3
Giáp Tý.
2. Phân tích, bổ sung
và cập nhật thông tin
2.1 Nhận xét chung
Thông tin từ các con ông:
Ông tầm thước vừa phải, nhanh nhẹn, thông minh, khéo léo, xã giao
rộng. Về cuộc sống: biết lo liệu kinh tế gia đình (phát triển nhà
cửa, ruộng đất, trâu bò...), biết nuôi dạy con cái. Về Dòng họ: chăm
lo công việc với vai Tộc trưởng, xây dựng định hướng phát triển Dòng
họ lâu dài. Về kiến thức: biết chữ Hán Nôm, ham hiểu biết, yêu thơ
phú, biết thưởng thức giá trị cuộc sống.
Ông là người thành
đạt trong nhiều phương diện cuộc sống, được cộng đồng và chức sắc
địa phương tín nhiệm, mến mộ, kế thừa và phát huy được những giá
trị đời trước để lại... Quan niệm sống của ông (biểu thị trong tư tưởng
Lời Tựa ở cuốn phả, bài Di huấn và những chữ ghi trong Từ
đường) cho thấy ông có kiến thức hiểu biết sâu rộng về giáo lý đạo
Nho, đề cao đạo đức, tinh thần người quân tử, thấu hiểu thân phận
kiếp người, ca ngợi sự nhàn tản, yên phận trong thưởng thức cuộc
sống.
Xét trong các vị Tộc trưởng,
ông là một trong những vị thành công nhất về cuộc sống, về phát triển gia đình,
Dòng họ. Ông đã hoàn thành khá trọn vẹn những dự định xây dựng Dòng họ như tôn
tạo mộ phần, xây dựng Từ đường, biên tập Tộc phả, tạo cơ sở vững chắc cho con
cháu đời sau.
2.2 Phân tích
các chi tiết trang phả
2.2.1 Phần thông tin
Đây là trang phả đầy
đủ nhất so với các đời trước (do người viết phả tự viết về đời
mình). Một số điểm đáng chú ý:
- Tra cứu sang dương lịch
cho thấy ông Đát sinh 1883, mất ngày 11-9-1939; Bà Trạc sinh 1880, mất
3-12-1937; Ông Nhạn sinh 7-2-1905; Bà Vị sinh 1908; Ông Chế sinh 4-12-1917; Bà
Vệ sinh 1920 và ông Độ sinh 13-4-1924. Người viết phả mất 1939, do đó
đương nhiên ngày mất được viết thêm sau này.
- Vì phản ánh thông
tin đương thời nên đã ghi được năm sinh, năm mất của ông/bà, năm sinh
của 5 người con (riêng các con trai ghi được cả ngày sinh). Chính ông chọn
tên tự cho mình trong phả, tên hiệu cho vợ trong bia (chứ không
phải do đời sau suy tôn).
- Ông là thứ nam, giữ
vai Tộc trưởng khi trưởng nam (ông Thụ) chỉ sinh 1 con gái và mất sớm.
Cha mẹ ông sinh 5 gái 2 trai, nhưng 5 trong 7 người con mất sớm, chỉ còn
chị gái ông (bà Hênh) và ông.
Vợ ông tên Trạc, họ Nguyễn[1] cùng
thôn. Bà sinh 1880, mất 1937, hưởng thọ 58 tuổi. Sinh thời bà hiền lành,
thương chồng con, chăm sóc các con cẩn thận nên cả 5 con đều khỏe mạnh, ít đau ốm.
Khi chồng chăm lo việc Dòng họ, việc xây cất nhà cửa, tôn tạo mồ mả thì bà chăm
lo việc đồng áng, nội trợ. Ông thường xuyên có khách bàn luận thời cuộc, thơ
phú, đánh bài tổ tôm... thì bà lo trầu nước phục vụ chu đáo. Bà được ca ngợi là
người bà, người vợ, người mẹ hiếu thảo, tốt bụng, thương người nghèo khó (đương
thời gia đình có nhiều người đến xin giúp việc, vay mượn lúc giáp hạt...). Ông
Đát đã dành cho bà nhiều tình cảm quý trọng về người vợ hiền thảo. Việc ông lập
cho bà một tấm bia mộ rất đẹp chứng tỏ bà được ngưỡng mộ trong lòng ông. Bia có
hình dáng rất đẹp, có tai bia, các chữ trên bia rất nghiêm trang và đầy đủ, được
cho là một trong những tấm bia trình bày cẩn thận, chu đáo nhất lúc bấy giờ.
Các chữ trong bia mộ bà: Đệ
Bát đại, Tỷ Nguyễn Lệnh thị hiệu Từ Trạc chi mộ. Bên phải ghi: Canh
Thìn, hưởng linh ngũ thập bát tuế. Bên trái ghi: Tốt Đinh Sửu, thập nhất
nguyệt sơ nhất nhật kỵ.
Dịch nghĩa: Đây là ngôi mộ
bà vợ là Nguyễn Lệnh thị hiệu là Từ Trạc thuộc Đời Thứ 8. Sinh năm Canh Thìn,
hưởng thọ 58 tuổi. Mất ngày 1-11 năm Đinh Sửu. Chữ Tỷ trong bia hàm ý
người chồng lập bia cho vợ. Năm Canh Thìn tức 1880, năm Đinh Sửu tức 1937. Chữ Lệnh
thị hàm ý ông ca ngợi gia thế nhạc phụ, suy tôn vợ được giáo dục, có đạo đức,
hiểu biết thời thế.
Cha mẹ bà Trạc sinh được
5 con, 3 gái 2 trai. Bà Trạc là con gái đầu, tiếp đến bà (không ai còn nhớ tên)
đẻ ra bà Quyênh ở cùng xóm (Bà Quyênh sinh ra Nênh, Phúc...). Sau đó là 2 con
trai: trai lớn tên Vũ đẻ ra ông Luần (Ông Luần đẻ ra Luần/Thành/Công), trai thứ
tên Văn đẻ ra ông Song (ông Song đẻ ra Thuyên/...). Con gái út (tên không ai còn
nhớ), đẻ ra bà Vị lấy ông Cảo (ông/bà Cảo – Vị sinh ra Thái/ Hòa/ Thế/ Thuận/ Mận/
Mơ). Các vị này đều ở cùng làng, con cháu các vị còn nhiều người đang sống ở
làng Phúc Ấm. Cho đến nay chúng tôi vẫn còn giữ tục gửi Tết cho chú Công[2] hàng
năm.
- Nhờ ghi rõ năm sinh
nên biết rõ: Ông sinh 1883, bà sinh 1880 (bà nhiều hơn ông 3 tuổi, hợp
với phong tục tập quán địa phương). Con đầu lòng sinh khi ông 22 tuổi,
bà 25 tuổi. Con út sinh khi ông 41 tuổi, bà 44 tuổi cho thấy ông/bà có
con đầu cũng không sớm (đương thời nam lấy vợ lúc 15-16 tuổi) và tuổi
sinh con út đối với bà có thể hơi muộn. Con đầu và con út cách nhau
19 năm.
- Các con ông/bà sinh
xen kẽ nam nữ: Lê Hữu Nhạn – 1905, Lê Thị Vị – 1908, Lê Hữu Chế – 1917,
Lê Thị Vệ – 1920, Lê Hữu Độ – 1924. Mỗi lần sinh cách nhau 3-4 năm là
phù hợp với điều kiện sống và sinh đẻ, trừ trường hợp ông Chế sinh cách
bà Vị 9 năm, có thể do rủi ro thai sản (1-2 lần) cũng là chuyện phổ
biến ở địa phương thời bấy giờ.
2.2.2 Về ý nghĩa đặt
tên gọi
Trang phả ghi đầy đủ
tên tục: nam lấy họ + đệm là Lê Hữu, nữ lấy họ + đệm là Lê Thị đối
với các con, Nguyễn Thị đối với vợ. Đây là cách ghi người sống trong
phả chứng tỏ sự khác biệt so với một số địa phương phía Bắc[3].
- Tên (tục) của ông là
Đát (妲) có bộ nữ (女) cạnh chữ đán (旦) (Đán: buổi sáng
sớm, ban đầu – người con gái buổi sáng - mang nghĩa thanh xuân, thể
hiện sự đương thì đẹp đẽ). Ông đặt cho mình tên tự là Đạt[4] (逹) mang ý nghĩa thông đạt, tiến đạt,
đạt tới được sự "tư thông bát đạt" – (thông suốt 4 phương tám
hướng), ngụ ý cho rằng mình đã đạt được những ước muốn trong đời...
- Tên các con ông gọi
âm địa phương là Nhợn hay Nhận – Vơợ – Chế – Vêệ – Đụa[5], theo
nghĩa Hán là Nhạn – Vị – Chế – Vệ – Độ. Nhạn[6] (鴈) là con chim nhạn,
mang nghĩa anh cả, giữ vị trí, trật tự trong nhà... Vị[7] (位) có nghĩa sự tôn kính, địa vị; Chế[8] (制) mang nghĩa phép tắc; Vệ (衞) mang nghĩa bảo vệ; Độ[9] (度) mang nghĩa mức độ, giữ phép (gia
giáo). Nhạn – Vị – Chế – Vệ – Độ khẳng định vị trí "đầu
đàn" của trưởng nam, địa vị từng người con, được (chế) sinh ra,
được bảo vệ nuôi nấng cẩn thận, giữ mức độ, cần thiết trong gia
đình.
Việc ông tự đặt cho
mình tên tự là Đạt và tên cho các con như trên cho thấy sự thông tuệ,
sáng suốt, có ý đồ rõ ràng của ông. Cũng có thể chính ông đã đặt
tên Đồ (tức Lê Hữu Đỗ) cho cháu đích tôn.
Khi ông/bà mất, 2 trai
lớn đã thành gia thất, có nơi ở riêng, 2 gái đã gả chồng, trai út
mới 15 tuổi chưa lấy vợ, nhưng cũng đã được chuẩn bị sẵn nơi ở riêng khi lấy
vợ. Ông bà có cuộc sống gia đạo đủ đầy, có phúc hưởng thọ[10], cả 5
con sinh ra đều khỏe mạnh, được dạy dỗ học hành tốt...
2.3 Thông tin các con
gái
- Bà Lê Thị Vị (sinh
1908, mất ngày 5-9 Nhâm Thân, tức
30-9-1992) được gả cho ông Trị họ Nguyễn Hữu cùng thôn. Ông Nguyễn Hữu Trị
(sinh 1902, mất 22-9-Quý Hợi, tức 17-10-1983) là con rể đã giúp làm Từ đường
Dòng họ. Mộ ông/bà hiện nay đang được an táng tại Cồn Chè. Ông/bà Trị
- Vị có 5 con (3 con gái 2 con trai) tên là Quẩng(Trăm)/Lơn(Sơn)/Đàn/Cảng/Ngãi.
Bà Trăm, Ông Sơn, Bà Đàn đều là giáo viên phổ thông (nay đã mất). Ông
Cảng trước khi nghỉ hưu là Thiếu tướng, tiến sĩ ngành tài chính học tại
Liên Xô – Cục trưởng Cục Tài chính, Bộ Quốc phòng, Đại biểu Quốc hội khóa
XI. Ông khai sinh 25-8-1945, nay đang sống tại Hà Nội. Bà Ngãi tốt
nghiệp Đại học Tài chính, công tác tại Bộ Nông nghiệp trước khi nghỉ
hưu, nay đang sống ở Hà Nội. Gia đình bà Vị có gia đạo tốt, con cái được
nuôi dạy tốt, thành đạt. Ông bà rất thương quý bên ngoại, đùm bọc chia sẻ tình
cảm, vật chất rất tận tâm với cả 5 anh em bên vợ. Ngày nay nhiều con cháu của
ông bà đang sinh sống và công tác tại nhiều thành phố lớn trong nước.
- Bà Lê Thị Vệ[11]
(sinh 1920, mất ngày 9-Chạp năm Kỷ Sửu, tức 23-1-2010) được gả cho ông Khuơ
(Khoa) họ Lê Quang cùng làng. Dòng họ Lê Quang thời Nguyễn có vị Lê Quang Liệu
từng giữ chức Phó lãnh binh tỉnh Quảng Trị, trước có ngôi mộ đá rất lớn tại Xóm
Ninh, mộ đã bị phá hủy những năm 1960. Ông Khuơ người tầm thước, chậm rãi, hiền
rất lành, chăm chỉ, cần cù và tiết kiệm. Ông bà sống đức độ, có lòng hiếu thảo,
quan tâm tới mọi người nên được xóm làng thương quý. Ông Khuơ biết chữ Hán
(chúng tôi đã nhờ ông đọc và tìm được mộ ông Đát). Trong những lúc khó khăn,
ông bà đã đùm bọc, chia sẻ với cả 5 anh em bên vợ rất thân tình và mẫu mực.
Ông Khuơ mất năm 1996, mộ
ông bà đang được an táng tại địa phương. Ông/bà có con trai duy nhất tên
Lê Quang Tiến (sinh 1954) trước khi nghỉ hưu là Hiệu trưởng trường Trung
học cơ sở xã Đồng Tiến, nay đang sống tại thôn Phúc Ấm 2.
2.3 Thông tin mộ phần
Nay mộ ông Đát đang ở
Cồn Nguộc, mộ bà đã quy tập về Khu mộ Dòng họ ở Cồn Chè.
3. Niên đại, bối cảnh
xã hội
Ông sinh 1883, mất 1939,
là thời kỳ có nhiều sự kiện liên quan đến địa phương:
- Sự khủng hoảng Vương
triều Nguyễn: ông sống trong 10 triều đại Vua từ Tự Đức (1883) – Bảo
Đại (1945)[12].
Tuy nhiên, phần lớn không ảnh hưởng đến cuộc đời ông vì các sự kiện
đó xảy ra chủ yếu lúc ông còn nhỏ.
- Người Pháp đánh
chiếm Huế (1885); Phong trào Văn Thân (1864 – 1885); Phong trào Cần Vương
(1885 – 1896): các sự kiện trên gây ra nhiều ảnh hưởng đến địa phương,
nhưng chủ yếu khi ông còn nhỏ.
- Phong trào Xô viết Nghệ
Tĩnh (1930) và hoạt động của các tổ chức cách mạng Việt Nam khi đó
chưa gây ra các tác động lớn ở địa phương.
- Một số thay đổi
khác: Hệ thống đập Bái Thượng (1920-1928) đi vào hoạt động; một số
người trong làng đi đồn điền cao su miền Nam, một số đi dân công, đi
lính qua Lào, Pháp...
Thời kỳ ông sống tuy
có nhiều biến cố chính trị, xã hội lớn nhưng may mắn thay, tình
hình địa phương khá ổn định, an toàn và có nhiều cơ hội phát triển
kinh tế.
4. Những giá trị đóng
góp của vị Tộc trưởng
4.1 Quan hệ xã
hội và nhận thức
Nhờ có học vấn nên
ông giao du rộng, có ảnh hưởng xã hội nhất định trong quê hương. Ông
giữ được quan hệ tốt đẹp với các chức sắc địa phương và cộng đồng,
nhất là các giá trị được gây dựng từ thời Tộc trưởng Phúc Vinh. Tại
tư gia vẫn là nơi tụ họp của những người có địa vị, có học vấn ở
làng để đàm đạo về cuộc sống, thơ phú, về những thú vui nhàn tản
khi về già. Ông để lại nhiều di sản quý, tư tưởng của ông trong di
sản cho thấy ông hiểu biết về cuộc đời, về nhân tình thế thái, về
tôn trọng truyền thống, về cảm nhận giá trị sống, về tư duy văn hóa,
tiếp thu cái mới rất đáng kính phục.
4.2 Phát triển Dòng
họ
Có thể nói đây là
thời kỳ địa phương khá bình yên và ông có điều kiện kinh tế tương
đối ổn định và có tích lũy. Vì thế Tộc trưởng Lê Hữu Đát đã có
điều kiện phát triển Dòng họ về nhiều mặt và là một trong những vị
có công nhất trong 10 vị Tộc trưởng của Dòng họ:
- Về xây dựng Từ đường:
Các năm từ 1917-1937, Từ đường đã được xây dựng và hoàn thiện 3 lần:
lần 1 năm 1917 khi ông 34 tuổi; lần 2 năm 1929 khi ông 46 tuổi và lần
hoàn thiện 1937 khi ông 54 tuổi. Cho đến nay, Từ đường vẫn là nơi tụ
tập hàng năm như ý nguyện đương thời của ông.
- Về tôn tạo Khu mộ Dòng
họ: ông đã tổ chức tu tạo và lập bia cho nhiều ngôi mộ quan trọng,
nhờ đó lưu giữ được giá trị tư liệu cho đến ngày nay.
- Về biên tập phả: ông
đã có công lớn trong biên tập bộ phả, nhờ đó lưu giữ được văn bản
Hán Nôm rất có giá trị cho Dòng họ.
Ông đã khẳng định sự
thành công với vai trò vị Tộc trưởng, vai trò người ông, người cha,
người chồng, đã để lại tấm gương sáng và nhiều tư liệu quý cho đời
sau. Ông đã sống một đời cần mẫn, chăm chỉ, nỗ lực và nhờ may mắn
nên cuộc đời ông khá viên mãn.
4.3 Phát triển
gia đình
Ông/bà đã tậu được
thêm ruộng đất, trâu bò, mở mang thổ cư, xây thêm nhà cho trai thứ (nhà
ông Lê Hữu Chế). Khu thổ trạch của gia đình khá tươm tất, đàng hoàng.
Trước khi mất, ông để lại cho gia đình hơn 3 mẫu ruộng (mẫu Trung bộ
5000 m2) và 3 trâu, bò.
Ông/bà đã dựng vợ,
gả chồng cho 4 con (2 trai và 2 gái). Các con trai đều có nhà ngói,
sân gạch đàng hoàng. Ông Chế được cất riêng một ngôi nhà đẹp, khá tân
kỳ thời bấy giờ[13] (không
phải nhà kiểu gỗ lim nhiều cột truyền thống mà 2 quá giang lim dài
gác tường gạch đã trốn được tới 3 hàng cột nên không gian nhà rất
thoáng rộng). Trai út (ông Lê Hữu Đụa) chưa có vợ khi ông Đát mất,
nhưng căn nhà ngang được coi như dành sẵn cho con út khi lấy vợ.
- Về tinh thần, văn
hóa: Các con trai đều biết chữ Hán Nôm và biết chữ quốc ngữ. Các con
trai đều được dạy học thuộc bài do ông sáng tác có tính di huấn và
những bài thơ phú do ông chọn ra. Các con trai đều biết chơi bài tổ
tôm (thú chơi sang trong quê bấy giờ).
5. Giá trị di sản
5.1 Nâng tầm giá
trị di sản của Dòng họ
Các di sản của ông để lại
rất có giá trị, là cơ sở để biên tập Tộc phả lần này, gồm:
- Biên tập phả (có đến
12 đời) cẩn thận, nhiều thông tin. Đặc biệt Lời Tựa giới thiệu
phả có giá trị tổng kết và ý nghĩa sâu sắc trong giáo dục gia đình
và Dòng họ.
- Từ đường được tu bổ
hoàn thiện liên tục 3 lần. Tuy Từ đường vẫn là nơi ở của Tộc trưởng
nhưng có giá trị quy tụ Dòng họ lâu dài. Các chữ viết ở các trang
trí trong nhà thờ đã nêu được ý nghĩa nhân văn, truyền thống và nâng
tầm phát triển Dòng họ trong các đời sau.
- Lập bia và tu tạo
một số ngôi mộ quan trọng: Bia mộ các vị Khởi Tổ ở Cồn Nguộc ghi
rõ được tu tạo năm Ất Sửu (tức 1925), bia mộ vị Tộc trưởng Đời Thứ 4 ở
Mả Buồn làm rõ danh tính cụ Phúc Huy cùng với tư liệu trong phả, bia
mộ Bà Cô Tổ ở Cồn Nguộc, bia mộ bà Trạc (vợ ông) mất 1937, bia ông
Thủy... Bia các vị Khởi Tổ còn rất rõ nét, bia mộ bà Trạc, bia mộ
ông Thủy được khắc đẹp, rõ ràng. Bia mộ cụ Tộc trưởng Đời Thứ 4 còn
ghi rõ danh hiệu theo trang phả, bia mộ Bà Cô Tổ còn rất rõ chữ và kỵ
nhật.
5.2 Tranh thủ
điều kiện cho con học hành
Vào những năm
1910-1917, điều kiện kinh tế gia đình tuy không khó khăn lắm nhưng thiếu
nhân lực nên trai trưởng lấy vợ sớm, ít có điều kiện đi học. Khi
biết con ông có khả năng tiếp thu tốt, ông đã tìm cách gửi con học
(kiểu học "ké") tại nhà ông đồ trong thôn (là bạn ông).
Chuyện truyền ngôn rằng con ông một hôm đến giúp việc nhà thầy đồ đã
biết nhắc bài cho một bạn đang học trong sân. Thấy vậy, ông đồ
chú ý và biết con ông đã "học lỏm" trong lúc giúp việc.
Biết chuyện, ông đã cho con đến xin học (như một kiểu học không chính
thức), nhờ đó con ông biết chữ Hán Nôm cơ bản[14].
5.3 Truyền cho
thế hệ sau bằng cách dạy con học thuộc
Các con trai ông đều
thuộc những bài như Di huấn, bài "Quân tử vu
dịch"[15]... Đây
là cách hướng con cháu đến các giá trị đạo đức tinh thần.
6. Những điểm chưa
khảo cứu được
- Tư liệu dựng phả: Dòng
họ có nhiều vị Tộc trưởng có học vấn, có ảnh hưởng xã hội và
cộng đồng, tất nhiên luôn biết tôn trọng truyền thống, giữ gìn thông
tin Dòng họ. Trong biên tập phả ông đã nói rõ ý "vãng tích
tàn biên lai kim thế nan dĩ..." và đã "tự lẫm tinh
thần cánh tu hệ phổ sử". Điều đó cho thấy chắc chắn 2 điểm:
i/ Ông đã biên tập dựa trên các tư liệu đã có từ các đời trước để
lại; ii/ ông đã tu chỉnh (cập nhật, bổ sung) trên cơ sở cố gắng tự
lực để con cháu hiểu được trật tự thế thứ... Rất tiếc ông không nói
rõ sự tu chỉnh này đã dựa trên những tư liệu được ghi chép từ những
vị Tộc trưởng nào?
- Việc ông biên tập chi
tiết phả cho cả Dòng họ (có tới trên 100 vị), trực hệ cũng
như bàng hệ đều nêu được thông tin chính (tên tự/hiệu, ngày giỗ,
nơi táng). Các thông tin này bảo đảm cơ sở định danh cơ bản các vị Tiên
tổ để thế hệ sau tưởng niệm người đã khuất (xướng tên khi tế lễ,
ngôi thứ người chủ tế, lấy đúng ngày cúng tế, điểm tảo mộ...). Một số
thông tin không rõ về phần mộ khi các đời đã quá vãng là khó tránh
khỏi trong biên tập. Tuy nhiên trường hợp bà Nguyễn Thị Cải không có
thông tin mộ phần là điều băn khoăn lớn: bà là mẹ của người biên tập
phả. Phải chăng có liên quan đến sự thất lạc mộ hay lý do tín ngưỡng
gì đó để cần phải giữ kín thông tin này?
- Về bia: bia ông Thủy
là bác ruột ông Đát. Bia đã ghi rõ tên tự là Thuần Thủy, phả ghi rõ
tên tự là Tảo Thủy. Điều đó chứng tỏ ông Thủy mất sớm khi chưa có
vợ. Nhưng bia ghi rõ chữ khảo có nghĩa người lập bia là con trai
lập cho cha. Đây phải chăng là: i/ Khi ông Vinh còn sống đã coi ông Đát
như con nuôi ông Thủy để hướng con mình tới sự quan tâm thờ cúng ông
bác ruột mất sớm; ii/ Ông Đát khi chuyển mộ ông Thủy từ Cồn Trảng
về Cồn Nguộc trong dịp tôn tạo khu mộ Dòng họ đã đứng lập bia cho ông
Thủy và chữ khảo là xưng như con lập bia "coi bác như cha"
để tôn kính tiếc thương người xấu số không có người chăm lo phần mộ về
sau?
[1] Các thông tin nhà
bà Trạc được chúng tôi tham khảo từ các vị cao niên trong làng trong đó ông Nguyễn
Hữu Viên cung cấp là chủ yếu.
[2] Chúng
tôi gọi chú Công (chú em) là quan hệ cháu cô cháu cậu, cô là con đầu.
[3] Việc ghi phả ở
một số nơi chỉ ghi người đã khuất hoặc người sống ghi mực đỏ, khi
chết thì ghi đè mực đen lên chữ đỏ lên. Người viết phả lấy quan điểm
thông tin là quan trọng, không kiêng kỵ thủ tục ghi phả để trên bàn thờ
cúng (chỉ ghi khi người đã chết).
[4] Từ điển Nguyễn
Quốc Hùng giải nghĩa chữ đạt còn là thành công, thành việc, sắp
đặt...
[5] Sau này, khi công
việc quản lý địa phương làm các giấy tờ thủ tục thì mọi người đều lấy tên theo
âm gọi địa phương. Từ khi có căn cước, ông có tên Lê Hữu Nhận, bà Vị có tên Lê
Thị Vợ, ông Độ tên Lê Hữu Đụa. Việc gọi chệch đi so với tên trong phả cũng là lối
gọi tránh tên tục (nhằm che giấu tên tục).
[6] Nhạn: Từ điển
Thiều Châu: chim nhạn, bay có thứ tự, nên anh em gọi nhau là "nhạn
tự".
[7] Vị: Từ điển Hán
Việt phổ thông: vị trí; Từ điển Nguyễn Quốc Hùng: ngôi thứ, chỗ đứng.
[8] Chế: Từ điển Nguyễn
Quốc Hùng: Luật pháp, phép tắc.
[9] Độ: mức độ, Từ
điển Nguyễn Quốc Hùng: phép tắc luật lệ.
[10] Lúc bấy giờ tuổi
thọ trên 55 được coi là có phúc hưởng thọ.
[11] Bà Vệ kết hôn
lần đầu khoảng năm 1936-1938, sau đó chồng bà mất do bị bệnh thần
kinh. Kết hôn với ông Khuơ là lần 2, khi đó vợ ông cũng mới mất.
[12]
Vương
triều Nguyễn từ 1883-1916 gồm 10 triều Vua: Tự Đức (1848-1883), Dục
Đức (3 ngày), Hiệp Hòa (1883: 6 tháng), Kiến Phúc (1883-1885), Hàm Nghi
(1884-1995), Đồng Khánh (1885-1888), Thành Thái (1889-1907), Duy Tân
(1907-1916), Khái Định (1916-1925), Bảo Đại (1925-1945).
[13] Nhà này nay vẫn
còn một phần trên đất nhà ông Nguyễn Giáo Giới ngay cạnh Từ đường
(căn nhà này có thể được xây khoảng năm 1933-1935?). Giấy tờ thổ cư này
được làm 3 thứ tiếng: Hán, Pháp và Việt nay vẫn còn được ông Nguyễn Giáo Giới
lưu giữ.
[14] Xem thêm tại https://lehuuanhghichep.blogspot.com/2025/06/cha-toi-vi-toc-truong-oi-thu-9-cua-phuc.html