Theo
một văn bản pháp luật kí năm 1980 của Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, nhà thơ
Tố Hữu, chúng tôi, hơn 3000 tân kĩ sư, bác sĩ tốt nghiệp đại học
năm 1980 trở thành kĩ sư-lính, kĩ sư-sĩ quan. Ai chưa là sĩ quan dự bị thì thành
kĩ sư-lính (binh nhì), ai là sĩ quan dự bị năm 1980 thì thành kĩ sư-sĩ quan
(thiếu úy).
Lớp
Kinh tế 20A Đại học Nông nghiệp I chúng tôi có 7 chàng trai trẻ nhất trong lớp đăng
lính năm ấy. Lớp có hơn 50 người nhưng số đăng lính ít vì hồi đó có hơn 40 anh chị
là cán bộ đi học và là lính trở về từ các chiến trường.
Nói
luôn tên 7 chàng này để các câu chuyện sau này còn liên quan nhiều đến từng người:
Nguyễn Hữu Đào, Cao Ngọc Đức, Lê Ngọc Lan, Trần Hữu Giang, Lê Cao Bính, Âu
Dương Đức và tôi là Lê Hữu Ảnh (Sau này nghe nói có anh Nguyễn Văn Tường cũng
đi dịp đó nhưng không ai có thông tin gì thêm về chuyện này). Riêng Âu Dương Đức
là kĩ sư-lính, còn 6 chàng là kĩ sư-sĩ quan.
Có
chừng hơn 2 tháng đóng quân tại làng Đường Lâm, Sơn Tây để huấn luyện tân binh ở
Trung đoàn 826 thuộc Quân khu Thủ đô. Tại đây chúng tôi được chứng kiến cả
nghìn chàng lính của rất nhiều trường đại học phía Bắc và cả những chàng lính tốt
nghiệp đại học từ nước ngoài tập trung trên quê 2 vua. Một số được phân về ở trong
các nhà dân làng Đường Lâm, số còn lại vào các lán trại trong các đồi cây bạch
đàn cách làng 4-5km. Ban đầu, giống chuyến đi dã ngoại nên vui vẻ, đàn ca, kể
chuyện rôm rả. Được khoảng mươi ngày thì phải chấp hành chế độ tân binh huấn
luyện rất nhàm chán: đi đều, học điều lệnh, nghe các buổi chiến thuật, khí tài…
Đến lúc này rất nhiều “chất trí thức” bị chán đời cộng với nhiều mưu kế vặt trở
nên một chút ngang tàng, thậm chí hơi lưu manh trong câu nói, hành động và đặc
biệt là đối xử với cán bộ khung huấn luyện. Càng về sau càng tệ hơn mang tính
chống đối cán bộ với những quy định huấn luyện tân binh áp dụng không đúng đối
tượng.
Các
phá phách từ chỗ không thực hiện quy định doanh trại đến tự do đi chơi, ra chợ,
vào dân nói chuyện. Sau đó đến chặt cây của HTX lấy củi cho dân tại các nhà bộ đội
ở trọ để giúp họ có chất đốt. Rồi đến những trò tếu táo
như lấy quân trang đổi kẹo, uống trà, trêu chọc cán bộ khung cấp đại đội. Họ là
những sĩ quan trẻ không đủ kiến thức chọi lại với những chàng tân trí thức nên mâu thuẫn ngày
càng gia tăng. Nhiều lúc như kho thuốc súng chực nổ, không khí căng thẳng các
buổi họp hành…
Những
sự cố này là do sự tập trung quá lâu một chỗ đối với những chàng lính “tân trí
thức” gây ra bất mãn nhất thời. Họ đang có tâm lí cống hiến sau nhiều năm học tập
nay bị giam hãm để làm những việc cơ bản vô ích mà cả người quản lý và người bị
quản lý cũng đều không rõ mục tiêu làm gì. Chúng tôi lờ mờ nghĩ rằng chắc Chính
phủ đã có ý định gì đó nên mới tính đưa chúng tôi vào lính chứ lúc này cơ bản
các mặt trận đã tạm yên ổn. Ngoài ra, chúng tôi biết lúc này cũng gần Tết nên
có thể họ có thể cho chúng tôi về quê ăn Tết xong sẽ quay trở lại để nhận công
việc.
Rồi
mấy ngày về quê ăn Tết vội vã và nhận các quyết định hành quân. Chúng tôi cả
nghìn người được chia theo các đội hình đi khắp các quân khu, đa số đi miền
Nam. Phần lớn chúng tôi được đưa ra tàu hỏa đi Nam trong hành trình 3 đêm 4
ngày. Số đi Quân khu 5 xuống Nha Trang, Số đi Quân khu 7 và Quân khu 9 xuống
Sài Gòn. Trong số 6 chàng lên tàu đi Nam có Lê Ngọc Lan đi Quân khu 5, Cao Ngọc
Đức đi Quân khu 7, còn lại Đào, Giang, Bính, Ảnh đi Quân khu 9. Xuống tàu còn được
tạm trú ở Sài Gòn 2 ngày, sau đó đi ô tô xuống Cần Thơ. Âu Dương Đức cũng về Tỉnh
đội Đồng Tháp trong chuyến đi 5 ngày bằng tàu biển. Vậy là có 5/7 chàng đi Quân
khu 9.
Tại
Quân khu 9, chúng tôi có khoảng 50 chàng từ nhiều ngành học được đưa về Trạm
khách Quân khu rồi trong vòng 2 tháng được phân đi các đơn vị trong Quân khu.
Nhiều vị đi Cam pu chia, các anh em ngành nông nghiệp chúng tôi được đưa về Cục
Kinh tế Quân khu 9 ở Cái Khế, Cần Thơ (khi đó Cục mới thành lập). Cụ thể: Nguyễn
Hữu Đào về Phòng Tài vụ, Bính, Giang, Ảnh về Phòng kế hoạch. Đến khi giải tán Cục
kinh tế Quân khu năm 1982, chúng tôi được đưa về Phòng Sản xuất thuộc Cục hậu cần
Quân khu 9 cho đến ngày ra quân cuối năm 1984.
Điều
hiếm có là 3 chàng Bính, Giang, Ảnh trong 4,5 năm đại học, 3 tháng học dự bị sĩ
quan đều ngủ chung 1 phòng (phòng 14 người), đến khi vào lính chúng tôi lại có thêm
4 năm ngủ chung 1 phòng (phòng 3 người). Số phận đã cho chúng tôi gần 9 năm ngủ
1 phòng trong quảng đời thanh niên sôi nổi nên có thể nói chúng tôi biết hết
các chuyện về nhau. (Còn Nguyễn Hữu Đào thì khi ở Đại học cùng lớp nhưng ngủ khác
phòng, khi vào quân đội thì dù đều ăn chung 1 bếp nhưng ngủ khác chỗ). Chuyện 3
chàng đã trở thành số phận: cùng tốt nghiệp đại học 1 ngày, cùng đi lính 1 ngày,
cùng kết nạp Đảng 1 ngày, cùng ra quân 1 ngày, 9 năm ngủ chung phòng. Nay đều
đã về hưu trí, đều là cán bộ thuộc bậc lương ngạch chuyên viên cao cấp, đều có
1 vợ 2 con gái. 3 chàng ở 3 miền với 3 nghề khác nhau: Giang là chuyên viên cao
cấp Bộ Giao thông, sống và làm việc ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bính là cán bộ
lãnh đạo cấp tỉnh, sau thành chuyên viên cao cấp ngành lâm nghiệp, sống và làm
việc ở Nghệ An (Vinh), còn tôi sống ở Hà Nội, là giảng viên cao cấp ở trường Đại
học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học viện Nông nghiệp Việt Nam). Khi còn công tác
đôi khi chúng tôi gặp nhau, về hưu có điều kiện mỗi năm gặp nhau đôi lần.
Nay
cũng là đến lúc kể lại nhiều hơn câu chuyện của 7 chàng và 3 chàng trai chúng
tôi, nhất là những chuyện trong quân ngũ. Tôi có ý định sẽ kể ngắn những sự kiện
mà cả 3 đều còn nhắc mỗi khi gặp lại, nhưng thiết nghĩ có điều kiện ghi chép cũng
gọi là để câu chuyện đầy đủ hơn.
Tôi
định chia thành 6 mục sau:
1/ Khung trời Đại học - Một thời sôi nổi;
2/
Những ngày đầu quân ngũ;
3/ Trên chuyến tàu vào Nam;
4/ Quân khu 9 - Muôn nẻo dặm đường;
5/
Thành cựu binh - Mỗi người mỗi ngả;
6/ Cội nguồn thâm sâu - Thành duyên kết tụ.
Chắc
cũng phải nhiều ngày, nhiều tháng mới hi vọng kể hết. Mong sao có sức khỏe để
ghi chép, đặng thêm thú vui lúc già.