Chủ Nhật, tháng 9 22, 2024

Chuyện những que kem

 

Hồi còn bé tẹo (khoảng những năm 1966-1968), chúng tôi đã biết kiếm cá, đánh lươn. Ăn không hết nên bố mẹ bán lấy tiền, đôi khi cho chúng tôi mấy hào (1 hào là 10 xu) để ngày Quốc Khánh 2-9 rủ nhau đi Thị xã Thanh Hóa ăn kem. Những đêm hè nghe kể chuyện ăn kem thật vô cùng thú vị. Mấy anh lớn hơn đã được nếm tả cái ‘bánh lạnh’ này hấp dẫn đến mức chảy nước miếng cả lũ và thế là mỗi dịp 2-9 đều có một ‘thế hệ mới’ phải xuống ga Thanh Hóa để mua cho được que kem như trải nghiệm tất yếu của sự trưởng thành.

Rồi mùa hè 1969, sau đình chiến ném bom miền Bắc[1], chúng tôi được chuyến đi dịp 2-9 đến Thị xã. Mục tiêu chính là được thưởng thức món kem của những thằng chưa từng được nếm. Đi từ 4-5g sáng, mỗi bọn 7-8 đứa thành từng nhóm đi bộ, đến được ga để xếp hàng chờ mẻ kem mới (ở đó toàn trẻ con vì mọi đứa trẻ các làng khác chắc cũng như thế). Khoảng sau 9am thì may ra đến lượt. Có đứa mua được có đứa không, nhưng chẳng đứa nào không được nếm vì ăn đều chung: cùng mút, cùng chia. Cái cảm giác lạnh buốt kẽ răng trong cái nắng sớm ở những khuôn mặt đen nhẻm toát mồ hôi vì chạy bộ, xếp hàng từ sáng sớm đến giờ thật mãn nguyện. Coi như chỉ là được nếm vì vừa khó mua, vừa ít tiền nhưng vài ba lần mút cũng là đời đã biết mùi kem để về còn khoác với đàn em – cái lũ chưa từng biết mùi, còn phải chờ cơ hội sau này. Có mấy bác đi qua chê tụi nhà quê mút kem chung mất vệ sinh, nhưng chúng tôi chả đứa nào quan tâm, cứ chia nhau mút cho đến trơ que, ngon thì cũng chẳng kịp cảm nhận, nhưng lạ và lạnh là cái thằng nào cũng biết.

Đến năm 1973, lần đầu tiên được xem phim Ông già Khottabych (Khốt Ta Bít) lại thấy cảnh ông già phù thủy ấy được mời ăn kem thì ông ấy ăn rất nhiều và nói với bọn trẻ rằng kem là món bánh ngon nhất đời mà ông ấy từng được thưởng thức. Khi đó bọn tôi cười vì đều biết kem khi tuổi còn ít hơn ông.

Sau này lớn lên ít còn cảm xúc với kem như thuở ban đầu nhưng kem dường như vẫn mê hoặc  mọi lũ trẻ choai. Khi tôi đi bộ đội về phép được ra Thủ đô chơi, có lần đưa đứa cháu đi ăn kem. Cháu ăn một lúc hết hơn chục que kem Tràng Tiền. Lại có lần đưa một bé đi ăn kem Tràng Tiền, tôi vô tâm không nhớ nhiều nhưng bé vẫn còn nhắc rất lâu sau đó rằng thấy tôi đạp xe lấm tấm mồ hôi trong gió thu và rất có thể người ăn kem Tràng Tiền cũng chưa quên vị kem hôm ấy.

Ngày nay, kem Tràng Tiền vẫn còn đông người thưởng thức kiểu cầm que ăn thản nhiên giữa phố. Chắc ai cũng muốn thêm một lần tận hưởng món kem nổi tiếng với những cảm giác thuở ban đầu.

 




[1] Chiến dịch Sấm Rền (Operation Rolling Thunder) hay Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất kéo dài từ ngày 2/3/1965 đến 1/11/1968.

 

Thứ Hai, tháng 9 16, 2024

Nhớ về một quãng đời trai trẻ

 

Theo một văn bản pháp luật kí năm 1980 của Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, nhà thơ Tố Hữu, chúng tôi, hơn 3000 tân kĩ sư[1], bác sĩ tốt nghiệp đại học năm 1980 trở thành kĩ sư-lính, kĩ sư-sĩ quan. Ai chưa là sĩ quan dự bị thì thành kĩ sư-lính (binh nhì), ai là sĩ quan dự bị năm 1980 thì thành kĩ sư-sĩ quan (thiếu úy).

Lớp Kinh tế 20A Đại học Nông nghiệp I chúng tôi có 7 chàng trai trẻ nhất trong lớp đăng lính năm ấy. Lớp có hơn 50 người nhưng số đăng lính ít vì hồi đó có hơn 40 anh chị là cán bộ đi học và là lính trở về từ các chiến trường.

Nói luôn tên 7 chàng này để các câu chuyện sau này còn liên quan nhiều đến từng người: Nguyễn Hữu Đào, Cao Ngọc Đức, Lê Ngọc Lan, Trần Hữu Giang, Lê Cao Bính, Âu Dương Đức và tôi là Lê Hữu Ảnh (Sau này nghe nói có anh Nguyễn Văn Tường cũng đi dịp đó nhưng không ai có thông tin gì thêm về chuyện này). Riêng Âu Dương Đức là kĩ sư-lính, còn 6 chàng là kĩ sư-sĩ quan.

Có chừng hơn 2 tháng đóng quân tại làng Đường Lâm, Sơn Tây để huấn luyện tân binh ở Trung đoàn 826 thuộc Quân khu Thủ đô. Tại đây chúng tôi được chứng kiến cả nghìn chàng lính của rất nhiều trường đại học phía Bắc và cả những chàng lính tốt nghiệp đại học từ nước ngoài tập trung trên quê 2 vua. Một số được phân về ở trong các nhà dân làng Đường Lâm, số còn lại vào các lán trại trong các đồi cây bạch đàn cách làng 4-5km. Ban đầu, giống chuyến đi dã ngoại nên vui vẻ, đàn ca, kể chuyện rôm rả. Được khoảng mươi ngày thì phải chấp hành chế độ tân binh huấn luyện rất nhàm chán: đi đều, học điều lệnh, nghe các buổi chiến thuật, khí tài… Đến lúc này rất nhiều “chất trí thức” bị chán đời cộng với nhiều mưu kế vặt trở nên một chút ngang tàng, thậm chí hơi lưu manh trong câu nói, hành động và đặc biệt là đối xử với cán bộ khung huấn luyện. Càng về sau càng tệ hơn mang tính chống đối cán bộ với những quy định huấn luyện tân binh áp dụng không đúng đối tượng.

Các phá phách từ chỗ không thực hiện quy định doanh trại đến tự do đi chơi, ra chợ, vào dân nói chuyện. Sau đó đến chặt cây của HTX lấy củi cho dân tại các nhà bộ đội ở trọ để giúp họ có chất đốt[2]. Rồi đến những trò tếu táo như lấy quân trang đổi kẹo, uống trà, trêu chọc cán bộ khung cấp đại đội. Họ là những sĩ quan trẻ không đủ kiến thức chọi lại với  những chàng tân trí thức nên mâu thuẫn ngày càng gia tăng. Nhiều lúc như kho thuốc súng chực nổ, không khí căng thẳng các buổi họp hành…

Những sự cố này là do sự tập trung quá lâu một chỗ đối với những chàng lính “tân trí thức” gây ra bất mãn nhất thời. Họ đang có tâm lí cống hiến sau nhiều năm học tập nay bị giam hãm để làm những việc cơ bản vô ích mà cả người quản lý và người bị quản lý cũng đều không rõ mục tiêu làm gì. Chúng tôi lờ mờ nghĩ rằng chắc Chính phủ đã có ý định gì đó nên mới tính đưa chúng tôi vào lính chứ lúc này cơ bản các mặt trận đã tạm yên ổn. Ngoài ra, chúng tôi biết lúc này cũng gần Tết nên có thể họ có thể cho chúng tôi về quê ăn Tết xong sẽ quay trở lại để nhận công việc.

Rồi mấy ngày về quê ăn Tết vội vã và nhận các quyết định hành quân. Chúng tôi cả nghìn người được chia theo các đội hình đi khắp các quân khu, đa số đi miền Nam. Phần lớn chúng tôi được đưa ra tàu hỏa đi Nam trong hành trình 3 đêm 4 ngày. Số đi Quân khu 5 xuống Nha Trang, Số đi Quân khu 7 và Quân khu 9 xuống Sài Gòn. Trong số 6 chàng lên tàu đi Nam có Lê Ngọc Lan đi Quân khu 5, Cao Ngọc Đức đi Quân khu 7, còn lại Đào, Giang, Bính, Ảnh đi Quân khu 9. Xuống tàu còn được tạm trú ở Sài Gòn 2 ngày, sau đó đi ô tô xuống Cần Thơ. Âu Dương Đức cũng về Tỉnh đội Đồng Tháp trong chuyến đi 5 ngày bằng tàu biển. Vậy là có 5/7 chàng đi Quân khu 9.

Tại Quân khu 9, chúng tôi có khoảng 50 chàng từ nhiều ngành học được đưa về Trạm khách Quân khu rồi trong vòng 2 tháng được phân đi các đơn vị trong Quân khu. Nhiều vị đi Cam pu chia, các anh em ngành nông nghiệp chúng tôi được đưa về Cục Kinh tế Quân khu 9 ở Cái Khế, Cần Thơ (khi đó Cục mới thành lập). Cụ thể: Nguyễn Hữu Đào về Phòng Tài vụ, Bính, Giang, Ảnh về Phòng kế hoạch. Đến khi giải tán Cục kinh tế Quân khu năm 1982, chúng tôi được đưa về Phòng Sản xuất thuộc Cục hậu cần Quân khu 9 cho đến ngày ra quân cuối năm 1984.

Điều hiếm có là 3 chàng Bính, Giang, Ảnh trong 4,5 năm đại học, 3 tháng học dự bị sĩ quan đều ngủ chung 1 phòng (phòng 14 người), đến khi vào lính chúng tôi lại có thêm 4 năm ngủ chung 1 phòng (phòng 3 người). Số phận đã cho chúng tôi gần 9 năm ngủ 1 phòng trong quảng đời thanh niên sôi nổi nên có thể nói chúng tôi biết hết các chuyện về nhau. (Còn Nguyễn Hữu Đào thì khi ở Đại học cùng lớp nhưng ngủ khác phòng, khi vào quân đội thì dù đều ăn chung 1 bếp nhưng ngủ khác chỗ). Chuyện 3 chàng đã trở thành số phận: cùng tốt nghiệp đại học 1 ngày, cùng đi lính 1 ngày, cùng kết nạp Đảng 1 ngày, cùng ra quân 1 ngày, 9 năm ngủ chung phòng. Nay đều đã về hưu trí, đều là cán bộ thuộc bậc lương ngạch chuyên viên cao cấp, đều có 1 vợ 2 con gái. 3 chàng ở 3 miền với 3 nghề khác nhau: Giang là chuyên viên cao cấp Bộ Giao thông, sống và làm việc ở Thành phố Hồ Chí Minh, Bính là cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, sau thành chuyên viên cao cấp ngành lâm nghiệp, sống và làm việc ở Nghệ An (Vinh), còn tôi sống ở Hà Nội, là giảng viên cao cấp ở trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội (nay là Học viện Nông nghiệp Việt Nam). Khi còn công tác đôi khi chúng tôi gặp nhau, về hưu có điều kiện mỗi năm gặp nhau đôi lần.

Nay cũng là đến lúc kể lại nhiều hơn câu chuyện của 7 chàng và 3 chàng trai chúng tôi, nhất là những chuyện trong quân ngũ. Tôi có ý định sẽ kể ngắn những sự kiện mà cả 3 đều còn nhắc mỗi khi gặp lại, nhưng thiết nghĩ có điều kiện ghi chép cũng gọi là để câu chuyện đầy đủ hơn.

Tôi định chia thành 6 mục sau:

1/ Khung trời Đại học - Một thời sôi nổi;

2/ Những ngày đầu quân ngũ;

3/ Trên chuyến tàu vào Nam;

4/ Quân khu 9 - Muôn nẻo dặm đường;

5/ Thành cựu binh - Mỗi người mỗi ngả;

6/ Cội nguồn thâm sâu - Thành duyên kết tụ.

Chắc cũng phải nhiều ngày, nhiều tháng mới hi vọng kể hết. Mong sao có sức khỏe để ghi chép, đặng thêm thú vui lúc già.


[1] Hồi đó chưa gọi cử nhân đại học như sau này.

[2] Khi bộ đội ở nhà dân chỉ được cấp lương thực, thực phẩm, còn dụng cụ và củi lửa đều nhờ dân.

Thứ Sáu, tháng 9 06, 2024

Cảm giác ba lần cận tử (lần thứ 3)

 

Cận tử là cảm giác rất khủng khiếp, nhất là khi còn trẻ con. Trước 6 tuổi tôi đã cảm nhận được cái chết rất gần, chỉ một chút xíu nữa thôi là qua phía bên kia… Nay ghi lại để thấy mình may mắn còn có được những thú vui tận hưởng cuộc đời. Dù đã trải nhiều vui buồn trong cuộc sống nhưng phút giây cận tử mới thực sự không thể nào quên được.


Lần thứ ba

Lại vẫn con sông ấy nhưng là lần ngớ ngẩn xảy ra khi tôi 6 tuổi và đã biết bơi. Gần trưa hôm ấy mới thằng nhóc đi tắm sớm, giờ đó chưa đông người tắm nên còn nghịch đủ thứ. Một đứa phát hiện chỗ gầm cầu có những hòn đá trong có nhiều tôm cá dựa vào nên cùng nhau rủ mò tôm.

Tôi sờ tay thấy bọn tôm cá nhỏ chạy ào ào qua kẽ tay giữa các khe đá. Tiện tay móc vào trong có nhiều con to hơn trơn tuột. Hết cỡ tay mà chưa vào hết các ngách trong những khe đá. Bọn tôi ngụp đầu xuống mò đến các khe sâu hơn. Thế là lặn một hơi và mò vào, con tôm tanh tách vào sâu mãi và tôi đã túm được nó. Tôi bắt đầu rút tay ra để ngoi lên thở thì tay bị kẹt cứng trong đá. Càng rút càng kẹt, hơi thở thì đã hết. Vùng vẫy một lúc tôi vẫn không rút được. Lại thấy hoa mắt, màu vàng sáng đục, miệng uống nước liên tục, nghẹt thở và lịm dần.

Khi tỉnh dậy tôi thấy tụi trẻ kêu ầm ĩ quanh tôi. Tôi hoàn hồn nghe được chúng nói là đã xúm vào lôi tôi ra. Khi ra được thì tôi đã mềm nhũn, may có mấy người lớn đi ngang qua thấy vậy làm hô hấp nhân tạo một lúc thì tôi ộc được nước ra và tỉnh lại.

Tôi nhìn thấy tay mình trầy xước chảy máu vì tụi trẻ đã xúm vào lôi tôi ra khi tay mắc vào kẽ đá. Hú vía, thoát chết vì mấy con tôm nhỏ. Nhưng có lẽ đau nhất là con trai mà chết trên con sông quê bé tẹo cạnh nhà thì còn ra cái nỗi gì.

Cảm giác ba lần cận tử (lần thứ hai)


Cận tử là cảm giác rất khủng khiếp, nhất là khi còn trẻ con. Trước 6 tuổi tôi đã cảm nhận được cái chết rất gần, chỉ một chút xíu nữa thôi là qua phía bên kia… Nay ghi lại để thấy mình may mắn còn có được những thú vui tận hưởng cuộc đời. Dù đã trải nhiều vui buồn trong cuộc sống nhưng phút giây cận tử mới thực sự không thể nào quên được. 

Lần thứ hai

Tôi chỉ là một đứa trẻ 5 tuổi được cha mẹ cho theo những đứa trẻ khác trong xóm ra sông trước làng tắm trưa hè. Tôi và bọn chúng mon men sát bờ nghịch nước, một vài đứa biết bơi, tôi khi đó chưa biết bơi đang ở những ngày đầu được đi nghịch nước như các bạn cùng tuổi.

Bỗng tôi thấy ai đó kéo chân tôi ra giữa sông và bỏ tôi giữa dòng nước sâu quá đầu tôi. Tôi chới với trong dòng nước mở mắt thấy một màu vàng đục. Tôi cố vùng vẫy, uống rất nhiều nước, bất lực chìm dần. Màu ánh sáng vàng đục trước mắt đó cứ mờ dần, mờ dần... Tôi được ai đó lôi vào bờ và vẫn còn sặc nước, mở mắt thấy sáng chói mắt. Nước mắt nước mũi giàn giụa nghẹn ngào mãi không nói được. Ngồi một lúc rất lâu mới leo run rẩy leo được lên bờ đi về nhà.

Thì ra các anh lớn nghịch ngợm đã lôi tôi ra chỗ nước sâu. Lũ biết bơi thì chới với bơi vào được còn tôi thì các anh nghĩ cũng thế. Nước đục thế lại rất đông trẻ náo loạn cả khúc sông nên không ai để ý đến ai. Họ bỏ mặc tôi vùng vẫy. May sao lúc ánh vàng trước mắt mờ dần, chắc tôi đã đụng phải ai đó và bọn họ đã lôi tôi vào bờ.

Cái ánh vàng đục là tôi nhớ rõ nhất: ánh vàng chấp chới, ánh vàng nhấp nháy, ánh vàng đờ đẫn, ánh vàng khô cứng, ánh vàng đục dần, mờ dần…

Đó chắc chắn là sự cận tử. Chắc chỉ vài mươi giây nữa là ánh vàng đục vĩnh viễn đông đặc mãi: đứa trẻ 5 tuổi sau đó sẽ chìm dần trôi theo dòng nước.

Cảm giác ba lần cận tử (lần thứ nhất)


Cận tử là cảm giác rất khủng khiếp, nhất là khi còn trẻ con. Trước 6 tuổi tôi đã cảm nhận được cái chết rất gần, chỉ một chút xíu nữa thôi là qua phía bên kia… Nay ghi lại để thấy mình may mắn còn có được những thú vui tận hưởng cuộc đời. Dù đã trải nhiều vui buồn trong cuộc sống nhưng phút giây cận tử mới thực sự không thể nào quên được.

Lần thứ nhất

Hồi đó tôi khoảng 3-4 tuổi…

Tôi còn nhớ cha đưa tôi ra nằm võng cói, cha ngồi sàng gạo cạnh võng. Chỉ có cây đèn dầu leo lét trong đêm hè nóng nực. Tôi sốt cao, rất đau ở 2 đầu gối như có những con dòi đục khoét bên trong, hình như tôi ti tỉ khóc và lịm dần.

Tôi bỗng thấy trong vùng trời tối đen kịt, tôi đang ở bên này con sông. Hai bờ sông có 2 người khuôn mặt vuông đen sì to lớn, hai người này cứ đổi nhau nhảy từ bờ này sang bờ kia, tay chống vào đầu gối, miệng gào thét dữ dội, gầm ghè giận dữ.

Tôi chết lặng đi chỉ còn nghe thấy tiếng gào thét của 2 người đó như chực chờ sẵn đưa tôi qua bên kia sông tối đen trong tiếng gào rú và tiếng gió vùn vụt khi 2 người tay chống gối nhảy qua nhảy lại giữa 2 bờ sông.

Có lẽ vào giữa buổi sáng hôm sau tôi nhìn thấy cha mẹ tôi đang đứng cạnh với tấm vải ướt trên trán và tôi nghe được cha nói: nó tỉnh lại rồi, chắc không ra đi như mấy anh chị nó…

Sau này tôi mới biết rõ hơn rằng trước tôi nhà đã có 8 anh chị ra đi ở độ tuổi của tôi (1-3 tuổi) và đều do căn bệnh sốt cao rồi chết rất nhanh. Sốt cao là nguyên nhân của vô số bệnh tôi không rõ đó thực sự là loại bệnh gì. Một người anh sinh ra trên tôi và 7 anh chị khác trước đó cũng đều mất khi đã biết đi, biết nói… Chắc ông bà linh thiêng và các anh chị đã phù hộ để tôi không bị 2 vị mặt đen đó đưa đi.

Hình ảnh cứ mỗi khi tôi ốm, nhất là khi sốt cao sau này tôi vẫn thường thấy rất rõ 2 vị đàn ông mặt vuông đen kịt lần đó.

Thứ Hai, tháng 9 02, 2024

Chuyện lũ mèo nhà tôi (nhiều kì)

Sự tích tên bà Tủng

Hồi đó nhà tôi nhiều mèo lắm, có 2 mẹ mèo đẻ: mỗi năm 2 lứa/mẹ, mỗi lứa 3-4 con/mẹ. Cho lũ con đi không kịp nên nhà có lúc lên đến 13 đứa. Vui mà đau đầu lắm.

Có mấy năm liền lũ mèo mắc căn bệnh kiết lị rất khó chữa vào dịp tháng Giêng ẩm ướt nồm. Nhiều em đã chuyển kiếp ngay sau sân nhà 41 Đường T. Thế rồi 1 thú y viên bày cách chữa dùng thuộc tiêm khi chúng bị ốm.

Bà mẹ thì học ngành ‘sáng cấy - chiều gặt’ nhưng cũng liều mua 1 cái xi lanh và thuốc về tự tiêm. Em mèo choai gầy yếu bị chị Hương (Xì) đưa ra sau nhà giữ chặt cho bà mẹ tiêm. Chọc kim tiêm vào cổ xong bắt đầu bơm thuốc thì ôi thôi thuốc phun ra bên kia cổ ra ngoài: kim tiêm đã chọc thủng cổ mèo choai.

Xì phá lên cười giòn giã, cười bật ra từ sự bất ngờ trong nỗi đau đớn của mèo choai. Còn bà mẹ thì rút kim ra chọc lại. Khổ thân mèo choai đau quá bị mấy lần chọc kim vào cổ trong sự cố gắng của bà mẹ mà còn phải chịu đựng tiếng cười tàn nhẫn của Xì.

Từ đó trong nhà có thêm tên mới: bà Tủng (tiêm thủng cổ mèo).

Ba chiều cuộc sống

 

Khi còn đi làm, để gia tăng giá trị tri thức phục vụ công việc thì tôi cứ tự khuyến: làm giàu tri thức bằng sự tích lũy hàng ngày, liên tục, kiên trì mỗi giờ trôi qua lại có thêm nhiều hiểu biết tri thức mới. Đại loại là chăm lo làm giàu tri thức theo dòng thời gian.

Chiều thời gian thì mỗi ngày ai cũng như ai đều có 24 giờ. Làm thật nhiều hay không làm gì thì 24 giờ cũng vùn vụt trôi qua. Chiều thời gian kéo chúng ta xềnh xệch từ lúc chào đời đến khi ta được trao cho thần chết một cách rất tàn nhẫn và công bằng.

Chiều tích lũy gia tăng giá trị (chiều sâu cuộc sống) phụ thuộc vào khát vọng, năng lực, kĩ thuật và phương pháp tích lũy cùng vô số yếu tố, điều kiện khác trong đó không thể không kể đến yếu tố may mắn mà ta được ‘bề trên tinh túy’ từ vũ trụ ban cho.

Còn chiều thứ ba ta thường quên hoặc giả vờ quên trong suốt cuộc đời mình: chiều rộng của cuộc sống. Người xưa nói ‘lòng rộng 1 thước, đường rộng 1 trượng’. Sách Thái Căn Đàm[1]: ‘đi đường nếu gặp phải đoạn đường chật hẹp thì nhường 1 bước để người ta đi qua’. Nhường 1 bước là cao, lùi 1 bước là nền tảng để bước tiếp.

Chiều thứ ba này tưởng dễ mà lại khó thực hành vô cùng: thực chất Lão Tử coi là đạo của nước (tìm nơi thấp nhất mà ở), còn ở lòng người thì đó là sự khiêm cẩn (khiêm tốn – cẩn trọng) và khoan dung (bao dung – tha thứ).

Chiều thứ nhất ta không thay đổi được, chiều thứ hai là ta cố gắng nhưng chiều thứ ba là ta thực hành trí huệ. Cái có được ở chiều thứ hai chẳng là gì cả, chỉ là sự ham hố tha về đầy tổ để khi nhận thấy chúng vô dụng thì băn khoăn buông bỏ. Chiều thứ ba kiểm lại mới thấy rõ chân giá trị cuộc đời.



[1] Hồng Ứng Minh: Thái Căn Đàm - Tinh Hoa Xử Thế Phương Đông (Dịch giả: Lê Tiến Thành). Nhà xuất bản Hồng Đức, 2024.