Thứ Bảy, tháng 2 01, 2025

Về công tác tại Cục Hậu cần QK9

Thân tặng các bạn đồng ngũ năm xưa

 

Từ khi Cục Kinh tế QK9 giải thể đầu 1983 và số phận chúng tôi những năm tháng còn lại trong quân ngũ đến khi ra quân cuối 1984 không có nhiều “biến cố” đáng ghi nhận. Tôi ghi chép lại ở đây những gì tôi còn nhớ.

Cục Hậu cần trước khi chúng tôi vào Cần Thơ đã có 1 đơn vị mang tên Phòng Sản xuất cũng đóng ở Phường Cái Khế (ngay sát Cục Kinh tế). Một số anh em kĩ sư-sĩ quan và kĩ sư-lính vào QK9 cùng thời gian với chúng tôi được phân công về đây và chúng tôi cũng đã có lần qua lại thăm hỏi nhau. Tôi không rõ nhiệm vụ Phòng Sản xuất Cục Hậu cần khi ấy là gì nhưng khi Cục Kinh tế giải thể về Cục Hậu cần thì những bộ phận còn lại của Cục Kinh tế chuyển về nhập với Phòng Sản xuất và người ta đã xây thêm hai dãy nhà cấp 4 mới ở cuối khu đất Cục Hậu cần sát một nhánh bờ sông Hậu để 2 đơn vị chuyển về.

Lúc này tình hình như sau:

-       Số hạ sĩ quan đăng lính (kĩ sư-lính) đã được ra quân theo chế độ 2 năm phục vụ quân đội. Các anh Đúp, Sơn, Thoải, Thịnh, Thủy, Ngô Mạnh Hùng… chuyển ra các đơn vị dân sự cơ bản theo nguyện vọng của họ.

-       Các anh quân nhân quốc phòng như Ngọc, Trung, Hà, Giản, Minh, Luận, Hòa,… cũng đã chuyển đi đâu đó, chỉ còn duy nhất anh Nguyễn Thanh Tâm là về Phòng Sản xuất Cục Hậu cần (vì các Thủ trưởng bấy giờ không muốn thiếu trợ lí tin cậy).  

-       Một số vị đã chuyển đi từ 1982 như Nên, Hải (Kì lừa) đi Minh Hải, Tuấn (Ghe) đi Cờ đỏ.

-       Các Thủ trưởng như Cục trưởng đại tá Ngô Thanh Vân, Cục phó Thượng tá Nguyễn Văn Bảy chuyển công tác (không rõ đi đâu). Cục phó Trung tá Nguyễn Nhật Quang về làm Cục phó Cục Hậu cần. Cục phó Trung tá Trần Kì Vân về làm Trưởng phòng Sản xuất Cục Hậu cần. Đội ngũ các trưởng phòng ở Cục Kinh tế trước đây ban đầu cũng về Phoàng Sản xuất như Đại úy Nguyễn Công Khai, Thiếu tá Lâm Hồng Quân, anh Phan Khắc Sinh (sau này anh bảy Sinh đi Nông trường Sông Hậu).

-       Bộ phận Phòng Tài vụ Cục Kinh tế chuyển về nhập với Phòng Tài vụ Cục Hậu cần.

Các bộ phận Phòng Sản xuất lúc này như sau:

Trưởng phòng Trung tá Ba Kì Vân, Phó phòng Thiếu tá Nguyễn Hữu Chước.

Căn nhà phía trước có các phòng làm việc được phân ngồi theo kiểu các trợ lí. Trợ lí tổng hợp là Nguyễn Thanh Tâm; trợ lí phụ trách vật tư là Giang, trợ lí tài vụ là Bính; trợ lí kế hoạch là Ảnh; các trợ lí nông nghiệp: Châu, Hải (con), Thế; trợ lí XDCB là Mạnh, Ngưỡng. Không rõ các vị như Bình (Hũ), Thiện, Cương[1] (kĩ sư- thiếu úy Cương là biên chế Phòng Sản xuất cũ, học CN19 sau xuống CN20 ĐHNNI)… được phân công việc gì?

Lái xe con là anh Cứng, lúc này có thêm lái xe tải là anh Ngừng. Các chị phục vụ còn lại Lệ, Kim,…

Cục Hậu cần ở vị trí gần cuối thành phố Cần Thơ lúc bấy giờ. Đối diện bên đường là bến xe đò nhỏ và một số khu gia binh gần đó. Vào cổng Cục đi thẳng là đến các khu làm việc của các Phòng Ban. Còn từ cổng Cục vào rẽ phải ngay là khu doanh trại của các sĩ quan và hạ sĩ quan gồm 8 căn nhà cấp 4, mỗi dãy 4 căn quay mặt vào đường lát nhựa rộng 6-7m rất tiện cho đá bóng gôn tôm các buổi chiều. Nhìn chung không có nhiều người ở vì đa số cán bộ có gia đình đều xin được nhà ở các khu gia binh gần đó. Khi chúng tôi đến thì nhiều phòng không có ai ở, thế là cứ 3-4 người tự động vào một phòng, không theo quy định gì cả.

Từ ngoài cổng vào thì căn nhà đầu tiên là của các bộ đội vệ binh, căn thứ 2 có mấy anh Ban Quân y rồi đến 2 dãy là  nhà ở anh em Phòng Sản xuất, cuối cùng là các Ban XDCB và các đơn vị khác. Căn nhà chúng tôi ở còn có phòng của anh Mạnh, phòng của Châu, Thế Hải (con), phòng của mấy anh em tân binh người Nam. Còn Bình (Hũ), Thiện, Cương, Hiệp[2]  và một số anh em khác như Hùng, Trịnh ở Ban Doanh trại ở các căn nhà cạnh đó cùng các sĩ quan đơn vị khác.

Tại đây, Bính, Giang, Ảnh lại một lần nữa chung 1 phòng đầu hồi dãy nhà thứ 3 tính từ cổng vào, quay lưng ra phía đường. Ban đầu phòng này đã có anh Ngừng lái xe tải ở, nhưng khi chúng tôi đến được mấy hôm thì anh Ngừng chuyển sang dãy phòng khác cho rộng chỗ hơn. Phòng rộng khoảng 20m2, có 2 cửa sổ rộng, phía sau là 1 cái ao nhỏ có cái nhà cầu chênh vênh, rồi đến bờ rào kẽm gai sát đường lộ. Tôi và Bính nhận 2 giường ngang cửa sổ, còn Giang thì đành phải nhận giường dọc phía cửa chính vào. Lúc này Phòng sản xuất để ở đây một cái két sắt to của thủ quỹ Kim giữa giường của tôi và Bính (vì Bính đã được phân trợ lí tài vụ). Nhiều hôm chị Kim đi làm phải mở két thì Bính phải về mở cửa phòng, còn vào giờ nghỉ thì chị Kim vào mở két khi cả 3 chúng tôi cùng đang ở đó. Lúc này, chúng tôi được phát mỗi người một cái tủ sắt cá nhân nhỏ để ở đầu giường, coi như không còn cảnh treo ba lô hay phải làm cái giá để tư trang như ở Cục Kinh tế nữa.

Cạnh cửa sổ giường tôi phía bên đường có một cây sao rất to, vào mùa hoa rụng, các cánh hoa sao xoay tròn bay theo gió tìm chỗ nảy mầm gieo hạt. Tôi rất thích ngắm những hoa sao bé tí màu nâu sáng xoay tròn theo gió bay rất nhiều trên trời qua dãy nhà tôi ở.

Nơi ở của chúng tôi khá sạch sẽ, khang trang. Ngay đầu hồi nhà có bể nước và khu tắm tập thể, còn WC thì có nhà cầu nuôi cá tra ngay ao sau nhà. Con đường nhựa trước 4 dãy nhà thì chiều có thể đá bóng, tối có tivi đen trắng kê ra đường để mọi người ai muốn xem thì kéo ghế ra ngồi. Hồi đó trên TV hôm nào chương trình có các ca sĩ Bảo Yến, Nhã Phương hát thì đông người thích, người đứng xem khá đông.

Về công việc thì chúng tôi về Phòng Sản xuất là hết các hoạt động đi công tác các tỉnh vì hình như các đơn vị Kinh tế Quân khu cũng được bàn giao cho các Tỉnh đội. Nhưng thời gian ở đây tôi cũng được cử đi công tác các chuyến đi rất đáng nhớ như tôi và Bính được cử đi chuyển tiền mua máy ở Sài Gòn, tôi đi Phnom Penh…

Cũng tại đây chúng tôi bắt đầu có tích lũy chút ít nên đầu tiên Giang đã mua được một xe đạp, sau đó đến Bính cũng dựng được cái xe đạp. Thế là đi ăn cơm hàng ngày đều ngồi xe đến nhà ăn (khoảng 400m). Cuối năm 1983, tôi cũng đã dựng được một xe đạp “liên hợp quốc” vì đồ phụ tùng của nhiều nước cóp nhặt lại. Tôi sẽ viết riêng một bài về cái xe đạp “lịch sử” này vì nó đã theo tôi ra Hà Nội và dùng nhiều năm sau đó.

Chiều chiều khoảng 4pm là mấy anh em đem bóng ra đá dọc đường. Bên dãy tôi thì Châu và Bính “đọ trí” bên bàn cờ tướng. Cơm tối xong về là đi dạo xe đạp tà tà thành phố, gẫu một hồi thì 9.30 là kẻng đóng cổng rồi ngủ. Tuy nhiên vệ binh ở đây cũng dễ tính nên nhiều lần chúng tôi đi chơi về khuya vẫn vào được mà không bị nhắc nhở như hồi ở Cục Kinh tế.

Khi về Cục Hậu cần, chúng tôi không còn thích thú món cải thiện ăn uống thêm nữa vì ở đây bếp ăn tập thể rất tốt, thức ăn ngon dồi dào nên ít khi ra chợ mua mấy thứ về nấu nướng như hồi ở Cục Kinh tế. Tại đây 3 chúng tôi cũng có chuyện vui đáng nhớ là lần thử câu trộm mấy con cá tra ở ao sau nhà. Câu cá tra thì không có gì khó, chỉ cần ném mồi xuống là chúng tranh nhau đớp, rồi kéo cần câu lên gỡ cá ra… dễ như bắt cá trong chậu thôi. Mượn được cái cần câu của chú lính phòng bên, chúng tôi lấy chuối chín làm mồi ném xuống rồi giật. Cá dính câu dễ quá, chúng tôi lôi vào phòng tắm gỡ ra cho vào cái xô nhỏ, nó cứ kêu ộp ộp như con ếch ồn ào cả lên. Tôi không nhớ chúng tôi xử lí chúng thế nào (có mổ ăn hay làm gì?) nhưng thế là cũng có thêm “hoạt động câu trộm cá” trong doanh trại.

Ở đây còn một hoạt động mà tôi cũng nên nhắc đến. Đầu 1984, Cục Hậu cần có mở một lớp tiếng Anh cho mọi người, ai có nhu cầu thì đi học. Tôi và Bính có đăng kí đi dự nhưng sau đó ít người học quá nên lớp dừng học. Tôi còn nhớ thầy dạy tiếng Anh là khoảng hơn 50 tuổi, người thấp đậm, nghe nói trước là giáo viên tiếng Anh có kinh nghiệm, nay không có việc làm vì khi ấy người ta chỉ học tiếng Nga. Cách dạy của ông ấy là luyện nói, không có giáo trình, ông ấy mỗi buổi chỉ cho mọi người đọc mấy câu bằng cách viết lên bảng sau đó mọi người đọc theo ông và từng người đọc cho đến khi thuộc, tự đọc được mỗi khi ông chỉ đến câu nào đó, rồi ông sửa cách đọc cho đúng âm điệu. Đại loại: “This is a table”, “This is a book”,… Lớp học mỗi tuần 1 buổi, đến tuần thứ 3 thì chỉ còn vài người nên kết thúc luôn. Lần đầu tiên tôi được học tiếng Anh là như thế.

Thế là chúng tôi lại chung một phòng thêm gần 2 năm nữa. Mặc dù ở chung nhưng công việc của 3 tên đã có khác chút. Ở đây còn một việc quan trọng mà cả 3 chúng tôi lại được duyên cùng là sự kiện ngày 27-1-1984 cả 3 chúng tôi đều được kết nạp Đảng tại chi bộ Phòng Sản xuất. Buổi kết nạp này tôi sẽ cố gắng viết vào dịp khác.

Về công việc thì do Phòng Sản xuất cũng không có nhiều nên nhàn rỗi, ai đi đâu cũng không ai nhắc, miễn là không qua đêm là được. Tại thời gian này, chúng tôi cũng có những mối quan hệ xã hội riêng nên nhiều cuộc đi chơi riêng lẻ chứ không còn kéo nhau đi cả bọn như trước. Hơn nữa lại có xe đạp nên cũng thường xuyên ra phố ngắm nghía hay thăm ai đó.

Một lí do quan trọng khác là mọi người đều chờ đợi ngày được ra quân chuyển ngành vì Luật Sĩ quan 1982 đã có những quy định cụ thể. Từ năm 1983, chúng tôi đều đi phép tới 2-3 tháng để ra Bắc dự tính xin việc chuyển ngành. Ngay cả khi được kết nạp Đảng đầu năm 1984 cũng là lúc tôi vừa đi phép về quê vào, trễ hạn đến hơn cả tháng nhưng vẫn được kết nạp. Vào tháng 5/1984, tôi ra Bắc lần nữa để xin được quyết định nhận công tác rồi vào làm thủ tục chuyển ngành. Năm 1984 chỉ còn là năm chờ chuyển công tác là chính, ngay cả bạn gái ĐH Cần Thơ biết tôi không ở lại Nam cũng đã không còn thân thiết nhiều nữa và đã có bạn trai mới. Những tháng cuối ở Cần Thơ gần như chúng tôi không phải làm gì. Vào tháng 9 đến tháng 10/1984, chúng tôi lần lượt ra quân theo quyết định cho từng người tùy theo giấy tiếp nhận của đơn vị mà mình xin được. Có đến cả 2 tháng tạm biệt bạn bè, chia tay nhiều người với những buổi liên hoan rất nhiều rượu, nhiều tiếng cười ồn ào cả trong doanh trại và tại các nhà riêng của người đăng cai tổ chức (rất ít khi đi nhà hàng vì hồi đó cũng thành phố cũng không có nhiều nhà hàng và nếu vào các nhà hàng thì chúng tôi cũng không có tiền chi trả).

Chúng tôi ra quân trong tình cảm chia tay Cần Thơ – Tây đô xinh đẹp hiền hòa, chia tay QK9 anh hùng, chia tay những ngày quân ngũ đáng nhớ mà chúng tôi đã dành một thời trai trẻ để phục vụ.

Có một lần khi đã ra Hà Nội công tác được nhiều năm, một thầy giáo già có hỏi tôi rằng những năm tháng ở bộ đội thì chúng tôi có được điều gì đáng giá nhất? Tôi bỗng trả lời ngay không kịp suy nghĩ kĩ rằng những gì mà tôi có được hôm nay đều là nhờ những năm tháng quân ngũ ấy. Đến bây giờ tôi vẫn thấy đó là câu trả lời đúng.

 

Viết xong ngày 1-2-2025 như là khai bút Xuân Ất Tỵ



[1] Vũ Chí Cương sau này ra Hà Nội, mất khoảng năm 2016 khi đang là Viện trưởng Viện Chăn nuôi, chức danh GS, học vị TS.

[2] Hiệp tốt nghiệp ĐH Xây dựng Hà Nội, có lẽ là biên chế Ban Doanh trại Cục Hậu Cần, về cùng với Trịnh và Hùng.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét