Chủ Nhật, tháng 2 23, 2025

Chuyện chúng tôi được kết nạp Đảng (kì 1)

 (Xong dàn ý hôm 27-1-2025, sau đúng 40 năm ngày được kết nạp Đảng)

Sự kiện chúng tôi, Lê Cao Bính - Trần Hữu Giang - Lê Hữu Ảnh được kết nạp Đảng cùng ngày (ngày 27-1-1984) tại cùng một Chi bộ như có thêm bằng chứng về duyên phận thời hoa lửa của những chàng trai trí thức trẻ vào đời qua nẻo quân nhân một thuở.


Từ khi còn nhỏ, thời chúng tôi, những Đảng viên trong cuộc sống đều là những tấm gương hi sinh và “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” luôn thấy mọi nơi trong hoạt động xã hội dù họ là cán bộ địa phương hay cán bộ nhà nước. Trong gia đình có người là Đảng viên là rất oai và hình như đa số những Đảng viên đều có quá trình phấn đấu rất gian khổ để vào Đảng. Chuyện lí lịch Đảng viên ở đâu cũng thấy sự khó khăn phức tạp, thậm chí kinh khủng như là dấu chấm hết về cuộc đời và sự nghiệp của một số người.

Sau này nhìn lại cuộc đời mới thấy mình chẳng là “cái đinh gì” so với bao người khác cùng thời và khác thời. Tôi được công nhận là đối tượng kết nạp Đảng từ 10/1978 đến khi được kết nạp Đảng vào 27/1/1984 cũng chỉ 6 năm. Thầy giáo đồng nghiệp của tôi hơn ¼ thế kỉ là đối tượng kết nạp. Khi ông được kết nạp Đảng năm 1987, tôi kém ông 16 tuổi đời nhưng tôi đã là Tổ trưởng một tổ Đảng của Chi bộ. Trong buổi lễ kết nạp ông vào Đảng, tôi thấy hầu hết Đảng viên trong Chi bộ đều trẻ hơn ông. Mọi người thấy ông nghiêm trang tuyên thệ một rõ ràng, cách trôi chảy và thuộc lòng, rồi lại thấy ông lặng người nén cơn nghẹn ngào, tôi mới hiểu con đường vào Đảng quan trọng như thế nào đối với trí thức thời đó[1]. Một trong những lí do ông phải phấn đấu lâu dài như thế vì gia đình có vấn đề về lí lịch được cho là không rõ ràng. Có một người chú của ông là cán bộ của Đảng đã mất tích năm 1954 tại Hải Phòng. Mãi rất lâu sau khi ông được kết nạp Đảng, tôi được nghe ông kể rằng người ta đã tìm ra bằng chứng minh oan cho người chú ông và đã được công nhận là liệt sĩ chứ không phải “kẻ mất tích” nghi trốn đi vào Nam 1954!!!

Đối với riêng tôi, từ hồi cấp 3 được kết nạp Đoàn (ngày 10-7-1973). Có thể nói từ đó là bắt đầu nuôi dưỡng mong muốn trở thành người Đảng viên. Ước mơ đó mãi đến 1984 mới đạt được thì kể ra cũng chỉ hơn 10 năm. Chẳng là gì so với một phần tư thế kỉ trẻ trung trai tráng hăng say kiên trì phấn đấu liên tục của thầy giáo đồng nghiệp đáng kính của tôi.

Tôi không biết những ai trong số 7 vị vào đời qua nẻo quân nhân lớp tôi thời ấy đã được công nhận là đối tượng Đảng trong trường đại học như tôi. Có thể Cao Ngọc Đức, Lê Cao Bính, Trần Hữu Giang… cũng được công nhận, nhưng Âu Dương Đức, Nguyễn Văn Tường chắc chắn là chưa. Riêng tôi vì 3 năm đầu học đại học có 5 kì học[2] được công nhận là học sinh tiên tiến nên năm thứ 3 được công nhận là đối tượng Đảng. Để trở thành đối tượng Đảng, tôi được cử đi học lớp cảm tình Đảng, sau đó là lớp đối tượng Đảng, mỗi lần học 1-2 ngày. Học là học thật, có thu hoạch nhận thức hẳn hoi, được nghe ông Năng[3], thầy Đạm[4] giới thiệu cũng thấy hay và hấp dẫn ra phết.

Mà cũng phải nói thêm chút về cái hồi là đối tượng Đảng. Một hôm tôi được anh Ngô Văn Ly – Bí thư Chi bộ - nói riêng với tôi rằng trường hợp Ảnh thì Chi bộ giao cho đồng chí Nguyễn Đình Chình – lớp trưởng giúp đỡ. Anh Ly nói đây là tình cảm anh nói với em, em đừng nói với ai vì sự phân công giúp đỡ không được công bố công khai. Đảng viên thời ấy trong lớp tôi khá đông, tôi nhớ có các anh Ngô Văn Ly, Nguyễn Đăng Hợp, Hoàng Nam, Chu Văn Khang, Mai Quỳnh Quốc, Hoàng Việt Cường, Kông Phương Kình, Nguyễn Đình Chình, Ngô Duy Phong và một số khác nữa, hình như còn cả chị Hoàng Thị Khánh và Lã Thị Thanh nữa. Một lớp Đại học có cả chục Đảng viên thì cũng oai thật, mà ban đầu cũng sợ nữa. Nhưng sau thấy một số Đảng viên học cũng không khá lắm, lại chẳng thấy gì là tấm gương “đi trước” nên trong lòng cũng thấy bớt đi chút gọi là kính trọng.

Có một lần nhân đi dạo sau bữa ăn chiều tại khu 4 hồ trong trường, tôi có hỏi anh Chình về một số định hướng phấn đấu, anh Chình nói đại ý: Ảnh cứ tự nhiên phấn đấu thôi, ở đây quan trọng nhất là người ta quan tâm việc học hành. Tôi ở chung phòng với anh Chình mà cũng không thấy anh gợi ý định hướng gì nên về sau tôi cũng không hỏi thêm gì nữa, nhưng vẫn hình dung có nhiều người trong Chi bộ được phân công đang dõi theo những nỗ lực của chúng tôi.

Vào năm cuối đại học, khi đã thi tốt nghiệp ra trường rồi thì cả lớp KT20A chỉ có anh Đỗ Văn Đức là được kết nạp Đảng. Chúng tôi khi đó đang huấn luyện sĩ quan dự bị nên có biết về buổi kết nạp anh Đỗ văn Đức.

Tuy nhiên khi gia nhập quân đội, chúng tôi thấy hình như người ta đã xóa nhòa các chi tiết cá nhân. Lúc vào QK9, cả 3 chúng tôi được coi như bắt đầu cùng vạch xuất phát mới, không ai quan tâm đến cố gắng phấn đấu những năm tháng trước.

Năm 1982, tại Chi bộ cơ quan Cục Kinh tế, anh Nguyễn Thanh Tâm được kết nạp Đảng. Chúng tôi đều vui mừng ủng hộ vì anh Tâm làm việc nghiêm túc, chỉn chu, được các Thủ trưởng tin cậy. Hôm họp toàn Chi đoàn Cục Kinh tế tại Phòng Nông nghiệp để làm thủ tục giới thiệu anh Tâm vào Đảng, nhiều người phát biểu tán thành. Tôi không thấy ai là đoàn viên đeo quân hàm sĩ quan phát biểu nên định giơ tay nói nhưng cứ nghĩ khen thì dễ mà mọi người nói cả rồi, nhưng góp ý cái hạn chế thì không biết nói cái gì. Nghĩ mãi không ra nên bỏ ý định phát biểu, coi như đồng tình với mọi người. Kể ra thì cũng thấy chỉ có mấy anh em phía Nam, lại toàn là quân nhân chuyên nghiệp phát biểu cũng chưa giàu sự ủng hộ lắm, giá có tiếng nói từ phía gần 20 đoàn viên là lính có quân hàm thì vẫn hay hơn!

Phải nói từ lúc về Cục Kinh tế QK9 đến giữa năm 1982 là chúng tôi đều có rất nhiều cố gắng. Các chuyến đi công tác, các hoạt động trong Cục đều tham gia tích cực. Tuy nhiên từ giữa năm 1982 thì một số nỗ lực có vẻ hơi mất đà. Lí do quan trọng là một số anh em được chuyển về các tỉnh công tác, rồi tin chuyện Cục Kinh tế có thể sẽ giải tán, rồi việc chúng tôi có thể ra quân theo Luật sĩ quan 1982 vừa được công bố. Từ nửa cuối năm 1982, cơ bản mọi người được đi phép 1-2 tháng ra Bắc đều có ý tìm hiểu công việc sau khi ra quân nên sự hăng hái ban đầu trở nên ể oải lan rộng ngấm ngầm.

Tôi cũng có nhiều kỉ niệm với những lần thử thách (không biết có đúng là đã được thử thách không) của các lãnh đạo. Tôi nhớ nhất là những thử thách trong các chuyến đi công tác cùng với Phó Cục trưởng Trung tá Trần Kì Vân đi Campuchia, đi Nông trường 416 (Nông trường Muối), đi Sài Gòn. Rồi cả chuyến đi khảo sát sâu trong vùng rừng U Minh với Thủ trưởng Trung tá Sáu Mẫn… Nếu có điều kiện tôi sẽ lần lượt viết về những kỉ niệm vui trong tất cả các chuyến đi công tác những năm ở QK9. Nay tôi chỉ xin kể ra đây một chuyến được đi cùng Thủ trưởng Ba Kỳ Vân đến Nông trường Muối ở huyện Giá Rai, Bạc Liêu.

Thủ trưởng Ba Kì Vân có vẻ rất khoái việc Cục Kinh tế được nhận Nông trường Muối. Tôi còn nhớ rất rõ một hôm ông vào Phòng Sản xuất nói rất to cho mọi người nghe rằng kì này Cục ta tha hồ ăn cá kèo. Nông trường Muối quân đội đóng ở Giá Rai, sát bờ biển có rừng mắm ngập mặn rất dày, ở đấy có rất nhiều cá kèo. Có lẽ cũng vì ông khoái món cá kèo nên có lần ông đưa chúng tôi đi công tác ở đây chăng?

Tôi còn nhớ đi xe Jeep anh Cứng lái, có thêm 2 vệ binh của Cục là Thắng và Dũng (Dũng có gia đình ở Bạc Liêu[5]) cũng được cử xuống để hỗ trợ xây dựng lại bờ đập vuông muối. Tôi và anh Nguyễn Văn Minh đi cùng. Nghe nói anh Minh có người quen ở vùng này kết hợp công tác và xuống thăm luôn.

Xe Jeep vào được tận sân Nông trường 416. Anh cán bộ chỉ huy ở Nông trường là Trung úy Lương người Nông Cống Thanh Hóa. Tôi đã từng đến đây 1 lần hồi Nông trường mới thành lập. Sau chuyến này tôi còn 2 lần đi công tác tới đây nữa, có dịp tôi sẽ ghi chép kĩ thêm về địa hình, quy mô khu ruộng muối, tổ chức quản lý kiểu Nông trường quân đội… Nay chỉ tập trung một chuyện liên quan đến việc tôi vào Đảng.

Khi đến, anh Lương dẫn cả đoàn ăn cơm trưa nhanh, sau đó đi thăm cánh đồng đang thiết kế các vuông muối. Lần đầu tiên tôi thấy cách làm muối kiểu Nam Bộ rất khác với những gì tôi thấy ở Hải Lí, Hải Hậu hồi tôi đi thực tập năm thứ 4 ở Đại học Nông nghiệp I. Ông Ba Kì Vân có vẻ đã rất rành những thứ này nên chỉ xem qua một lượt, hỏi anh Lương về một số chuyện rồi nói chuyện mấy người đang làm dưới ruộng (không biết có phải quân nhân hay không vì ăn mặc xà lỏn, áo đen cả) vài chuyện linh tinh kiểu tiếu lâm. Ông có nói vùng này nhiều cá kèo và cá sủ[6] to, ăn béo ngậy. Rồi ông nói ở đây rất gần Gành Hào[7], chắc khi xưa ông Kì Vân cũng hoạt động vùng này.

Cuối buổi chiều cả đoàn đi xuống một điểm dân cư cách Nông trường chừng 5km theo ông Ba Kì Vân nói là nơi ông quen biết khi còn hoạt động chiến đấu. Ông Ba và anh Lương đi xe ô tô xuống trước theo đường lộ, còn mọi người đi bộ theo đường dọc bờ kênh qua cánh đồng. Khi đến nơi tôi thấy có khoảng dăm ông cán bộ địa phương đang ngồi nhậu với ông Ba Kì Vân trong một ngôi nhà khá khang trang của một ấp thưa dân. Chúng tôi vào được mời vào một bàn ăn rộng có thể ngồi được cả chục người. Đoàn đi bộ chúng tôi mới đến cộng với mấy anh cán bộ địa phương đang chờ. Tôi thấy trên bàn ăn bày nhiều thứ cá, rau để nhậu, trong đó có món lẩu cá kèo. Ăn uống được một lúc thì Thủ trưởng Ba Kì Vân quay sang mâm dưới bảo tôi lại gặp. Tôi ghé lại thì Thủ trưởng nói nhỏ: “- Mày về Nông trường lấy cho tao cái xắc-cốt da tao để ở bàn họp lúc trưa xuống đây ngay”. Anh Lương ngồi kế bên bảo anh đã đem cái xắc-cốt vào phòng của anh, cứ về bảo cần vụ mở cửa ra lấy.

Tôi vội ra đi khi mọi người đang ăn uống sôi nổi. Lúc này trời đã bắt đầu tối, tôi vừa đi một lúc thì thấy có một vệ binh chạy theo đưa cho tôi khẩu súng AK47 và bảo rằng Thủ trưởng Ba Kì Vân nói cần mang theo súng khi đi đường. Thế là mọi người quay vào nhậu tiếp, một mình tôi lội ngược trở về Nông trường.

Vừa rồi tôi cũng đã ăn và uống một chút nên cũng không thấy mệt mỏi lắm. Lại cũng có uống mấy li rượu nên đi ngược gió chiều tối chỉ thấy cảm giác gió ào ào qua mặt, chắc cũng đi gấp lắm, kiểu vừa đi vừa chạy. Chừng chưa đến 1 giờ tôi đã lấy được cái túi, rồi quay lộn trở lại. Lúc này trời đã tối hẳn, đi trên bờ con kênh nhỏ không gặp một bóng người, không có dân cư hai bên. Tôi cứ lặng lẽ đi rất nhanh để kịp giao cho Thủ trưởng cái xắc-cốt da, bụng nghĩ chắc quan trọng lắm nên Thủ trưởng mới bảo tôi về lấy (chứ không bảo mấy chú vệ binh hay nhiều người khác trong đoàn). Như vậy có thể là Thủ trưởng rất tin tôi giữ được tài liệu cho ông. Tôi cũng nghĩ sao Thủ trưởng lại bắt tôi mang súng AK47 mà chắc chắn không có đạn, có lẽ Thủ trưởng muốn “ra oai” khi một sĩ quan thiếu úy khoác AK47 đi một mình để không ai dám dọa nạt gì chăng?

Khi tôi trở lại đưa tận tay cho Thủ trưởng Ba Kì Vân cái xắc-cốt da, ông không nói gì chỉ để bên cạnh và nhậu tiếp. Nhậu kiểu Nam thì phải biết, chừng 3-4 giờ chưa tan là chuyện thường. Tôi cũng quay lại ngồi vào bàn, lúc này bàn đã nhiều người ra ngoài sân ngồi nhưng vẫn còn mấy chú lính trụ lại uống rượu với cán bộ ấp. Thì ra cả đi và về tôi đã đi hết gần 2 giờ đồng hồ.

Nhiều lúc tự hỏi vì sao tôi được Thủ trưởng Ba Kì Vân cử đi lấy cái xắc-cốt? Nếu hiểu theo nghĩa quan trọng thì Thủ trưởng tin tôi hơn những người khác? Thì cứ cho là như vậy để tự “trấn an”, nhưng nếu nghĩ kĩ hơn thì tôi mang quân hàm sĩ quan cấp thiếu úy, nếu thật sự quan trọng sao ông không cử thêm một vệ binh quân hàm binh nhất, binh nhì đi cùng? Sao không bảo Cứng lái xe đưa tôi về lấy? Còn nếu gọi là thử thách thì có lẽ ông đã tính sẵn việc ông bỏ quên một cách cố ý cái xắc-cốt. Chỉ là cái xắc-cốt da cá nhân, mọi người đều phải đeo bên mình hoặc hoàn toàn có thể để trong xe ô tô sao lại “để quên” ở Nông trường rồi bảo tôi về lấy. Tất nhiên sau bữa nhậu hôm đó ông Ba Kì Vân và anh Cứng đã lên xe đi đâu đó chứ không về Nông trường ngủ lại như chúng tôi.

Đúng là chép lại chuyện này thì các băn khoăn như tôi vừa nói trên vẫn còn đó. Tất nhiên Thủ trưởng có quyền thử thách cấp dưới, nhất là những người đang được bồi dưỡng trở thành Đảng viên như tôi. Cho dù là mình đang được thử thách thì những gì tôi đã làm chẳng qua chỉ là đi một mình giữa đồng trong chiều tối, được mang một vật “quan trọng” cho một nhân vật “quan trọng”, được vác một AK47 không đạn… thì cũng chẳng nhọc nhằn gì cho lắm. Nếu quả đó là thử thách thì tôi đã hoàn thành (xuất sắc?) vì dám đi một mình, vì dám bỏ bữa ăn đang náo nhiệt để đi mà không lăn tăn gì, vì cả đám đông đó chỉ có mình tôi “dám” đi…

Cho dù là gì gì đi nữa thì người lính không được chống mệnh lệnh cấp trên. Tôi đã làm đúng. Nhưng cái khó - thậm chí RẤT KHÓ - ở đây là: nếu khi đó tôi là Thủ trưởng Kì Vân thì tôi có dám ra cái lệnh đó cho cấp dưới của mình không? Tôi – Thiếu úy Lê Hữu Ảnh chấp nhận khi làm người thi hành, nhưng Tôi - Thủ trưởng Lê Hữu Ảnh chưa chắc đã dám làm người ra lệnh như Thủ trưởng Ba Kì Vân của tôi.

Công việc của Đảng trong tình cảnh cụ thể có lẽ - mà không thể nói có lẽ được - mà PHẢI CẦN NHỮNG NGƯỜI RA LỆNH VÀ CẢ NHỮNG NGƯỜI TUÂN LỆNH.


 

 



[1] Lại nhớ anh VTK khi anh kể đơn xin gia nhập Đảng anh có ghi rõ một câu: “Tôi nhận thức rõ rằng người trí thức XHCN không có còn đường nào khác ngoài con đường gia nhập Đảng”.

[2] Mỗi năm học có 2 kì.

[3] Ông Năng là Trưởng Ban Tuyên huấn Đảng ủy Trường Đại học Nông nghiệp I hồi đó.

[4] Thầy Đạm là giảng viên, Trưởng Bộ môn Lịch sử Đảng Khoa Mác-Lênin trường Đại học Nông nghiệp I hồi đó.

[5] Sau một thời gian ngắn ở Nông trường Muối, Dũng bị tai nạn mất tại đây.

[6] Một loại cá da trơn rất to ăn hạt mắm, ăn thịt động vật, có con to mấy chục kí. Nghe nói người nào trong ghe mà bắt được thì có quyền được hưởng cái dạ dày vì trong dạ dày cá có thể có nhiều thứ quý, có khi và nhẫn vàng vì cá này ăn cả thịt người (?) Một lần tôi thấy dân ở đây đánh được một con cá rất to mang vào sân Nông trường Muối trước khi mổ thịt chia nhau mang về.

[7] Sông Ganh Hào ở Giá Rai, Bạc Liêu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét