Khoảng
đầu tháng 6, tức là khi chúng tôi về Cục Kinh tế QK9 được gần 2 tháng thì tôi
được cử đi công tác chuyến đầu tiên: đi cùng Đại úy Bùi Phước và anh Trung-Bởi
dzậy[1]
đến tỉnh An Giang.
Sáng
xe Jeep đưa đi từ Cục Kinh tế, đến Thoại Sơn tỉnh An Giang ăn trưa tại huyện đội
rồi một cán bộ huyện đội dẫn đoàn đến Nông trại Thoại Sơn. Tôi thấy mọi người ăn
đơn giản, khẩn trương chắc phải đi luôn cho kịp công việc. Xe Jeep đi dọc kênh nhỏ
đến đoạn còn thưa thớt nhà dân bên bờ kênh thì dừng vì đường cũng không đi tiếp
được. Anh cán bộ huyện đội mượn của dân 2 ghe nhỏ, mỗi ghe có 2 sào chống. Tôi
ngồi ghe với anh cán bộ huyện, anh Trung ngồi ghe ông Bùi Phước theo một kênh vào
sâu trong đồng. Kênh chỉ rộng chừng 4-5m, nước không sâu lắm và không chảy. Tôi
và anh Trung lóng ngóng chọc sào nên chỉ ngồi là chính. Qua vài chỗ rẽ, lòng
kênh hẹp dần. Đi chừng hơn 1 giờ thì anh cán bộ huyện đội bảo từ đây là ruộng sạ
của Cục Kinh tế[2].
Cả 4 người lên bờ, đi bộ trên đồng. Tháng này đã là mùa mưa nhưng đồng vẫn còn khô
cạn, chỉ thấy cỏ xanh mênh mông tít tắp, đôi chỗ có lúa mọc nhiều hơn cỏ một
chút, nhưng thưa thớt từng mảng lẫn vào màu xanh của cỏ.
https://lehuuanhghichep.blogspot.com/2025/02/chuyen-i-cong-tac-au-tien-cua-toi.html
Đi
một đoạn thì ông Bùi Phước nói: “- Tụi bây lấy sào đo áng chừng diện tích có
lúa, ghi chép lại rồi về tính xem khoảng bao nhiêu công có thể thu hoạch được
nhé. Khu này mỗi chiều khoảng 5km, cố gắng đi ngay kẻo tối không về kịp. Tụi
tao về trước, khi nào xong thì tụi bây tự chèo về, chỉ có một đường về, nhớ mấy
ngã rẽ kẻo lộn đường”. Thì ra là chúng tôi được cử đi đo ruộng, cụ thể là đo những
chỗ có lúa. Mà ông ấy nói chu vi mỗi chiều 5km tức là tới 25km2 hay 2500ha
ấy chứ.
Khi
đi chỉ mang giấy bút, không thấy nói làm gì nên chúng tôi không chuẩn bị dây
thước mang theo. Thế là chúng tôi lấy 2 cái sào chống ghe mang theo đi vào ruộng.
Đầu
tiên là bao quát tầm mắt nhìn: quả là một khu ruộng rất rộng. Lần đầu tiên
trong đời tôi thấy một cánh đồng rộng đến như thế. Nhìn quanh thì chỗ gần dân
nhất là nơi chúng tôi xuống ghe, có lẽ cũng gần 4km. Các phía khác thì thấy khu
dân cư chỉ lờ mờ, cách xa khoảng 7-8km. Giữa đồng chiều mênh mông gió, không có
tiếng động gì. Dường như khu đất này được bộ đội khai hoang nên không có bờ bụi
lô thửa gì cả. Tôi và anh Trung bắt đầu xác định đo.
Đo
thế nào cũng là cả một vấn đề, ruộng thì mênh mông nhưng lúa thì rải rác mỗi
nơi một ít lẫn với cỏ, nhìn lúa khó hơn nhìn cỏ. Đặc biệt món dây rau muống dại
ruộng mọc dài chằng chịt rất vướng chân khi bước trên đồng. Tôi bảo anh Trung
ta đành phải đo theo từng diện tích có lúa rồi cộng lại thôi chứ đâu có khoảnh
nào đủ lớn để thành ruộng ngang bờ dọc gì. Thế là lấy gang tay đo ước cái sào dài
khoảng 5,0m, dùng sào để tính các hình chữ nhật có lúa rồi sau đó cộng lại. Đo
được một lúc thì lại thấy khó: làm sao biết được chỗ nào đó mình đã đo hay
chưa? Đánh dấu thế nào để đo không trùng lại? Còn vấn đề nữa là nếu đi sâu mãi
vào thì làm sao biết được chỗ tìm để ghe mà về? Thế là tôi quay lại chỗ ghe, lấy
một cây sào cắm đứng lên để có thể nhìn được thấy từ xa, bỏ giày, xắn quần lội
trở lại ruộng.
Đầu
tiên là những mảnh có lúa dọc con kênh cho đến khi không còn lúa. Tôi phác vội
một sơ đồ để đánh dấu những khoảng đã đo dọc theo bờ kênh, chiều sâu của tầm đo
khoảng 500m cách bờ kênh. Khi hết lúa dọc bờ kênh thì chúng tôi quay ngang
vuông góc với kênh với ý định đi hết chu vi khu đất có sạ lúa thì vòng lại theo
kiểu xoáy ô vuông từ ngoài vào. Nhưng thực tế điều đó đã không thực hiện được vì
không thể nào xác định được góc vuông. Chúng tôi không tìm được cái gì trong tầm
mắt nhìn để có thể làm tiêu ngắm, chẳng hạn như một cái cây to, hay vật kiến
trúc, một đỉnh ngọn núi… Vả lại càng vào sâu trong ruộng thì chỗ có lúa càng thưa
thớt và không ra hình thù gì cả. Ban đầu dọc theo bờ kênh thì cơ bản có thể ước
được diện tích và mật độ trên sơ đồ, sau đó thì mật độ lúa không thể theo dõi
được và diện tích có lúa cũng khó mà quy thành hình chữ nhật khi trên thực địa
chúng xuất hiện không theo hình dạng nào. Đi chừng 3-4km theo chiều sâu tính từ
kênh, chúng tôi thấy càng vào sâu thì lúa càng thưa thớt. Thế là chúng tôi quyết
định đi xuống theo chiều dọc song song với kênh. Mỗi khi gặp đám ruộng có lúa
là ước đoán theo kiểu bước chân (mỗi sải bước chân cỡ 1m) chứ không thế dùng
sào nữa. Cứ thế đi xuống mãi.
Khi
nào thì quay ngang ra phía kênh để kết thúc chiều thứ 3 của hình vuông? Anh
Trung bảo: “- Bây giờ hổng thấy cái sào mình cắm đâu nữa rồi ông ơi?”. Tôi giật
mình nghĩ làm sao biết đâu là hướng ra kênh để tìm ghe về và làm sao đo được những
đám lúa còn lại? Lúc này chắc cũng khoảng 4pm chiều rồi. Tôi bàn với anh Trung
là đằng nào thì ta cũng phải về trước khi trời tối và do không thể xác định được
phương hướng nên đành liều đi thôi, thế nào cũng gặp được kênh. Thế là 2 thằng lội
trên ruộng vừa nhẩm đo số diện tích có lúa, vừa lo giật dần ra chỗ cắm ghe. Chừng
khoảng 1 giờ như thế càng không thể có cách nào xác định được diện tích trồng
lúa và hướng bờ kênh, chúng tôi đành chia ra mỗi người mỗi đường cách xa nhau
chừng 1km để vẫn còn nhìn thấy nhau mà tăng gấp đôi khả năng quan sát trước khi
trời tối. Sau đó khoảng 30 phút, chúng tôi may mắn đã phát hiện ra con kênh,
nhưng lại không ai biết cái cọc chống cạnh ghe ở hướng nào. Gay go quá, lại phải
chia ra đi ngược nhau, đến khi tôi không thấy anh Trung nữa thì tôi vòng lại và
rồi cuối cùng cũng tìm được ghe.
Lúc
này trời đã gần tối, chúng tôi lên ghe chèo về. Đi theo chiều ngược lại thì xác
định được nên chúng tôi mỗi đứa một đầu chống ghe trở về. Tôi thì lần đầu tiên
chống ghe, cứ tưởng anh Trung người Nam thì giỏi món này nên xác định mình chỉ
là hỗ trợ thôi. Nhưng anh Trung là dân phố, cả đời cũng chưa từng chống ghe bằng
sào, thế là 2 thằng như nhau, chọc sào, đẩy và nhổ sào cho ghe về. Tưởng không khó
lắm mà thực ra vô cùng nan giải. Khi cắm xuống để đẩy ghe đi thì tạm được,
nhưng khi rút sào thì ghe lại đứng vì không rút được sào lên dễ dàng. Cả 2 thằng
chống 2 bên nên khi thằng này cắm sào đẩy thì thằng kia lại rút sào làm cho ghe
không chỉ không tiến được mà có lúc chao đảo quay tròn. Một lần anh Trung rút
sào không được vì cắm quá sâu, còn bên này tôi lại đẩy mạnh sào vào bờ làm ghe
lao nhanh và anh Trung bám theo sào nhảy cả người xuống kênh. May mà kênh chỉ không
sâu lắm nên anh Trung trèo lên với cái quần ướt sũng, còn áo thì cũng ướt đến
quá bụng. Quá gay với món chống xuồng bằng sào này, sao ông Bùi Phước cà nhắc lại
tuổi lớn mà vẫn chống thấy nhẹ hoe?
Anh
Trung bảo ta sẽ chọc sào lên mép ruộng hoặc khỏa trên nước thì chắc ăn hơn là
chọc sào xuống nước. Thế là loay hoạy mãi mới tìm được kiểu đưa ghe về bằng những
cách rất khác nhau, khi thì chọc vào bờ kênh, lúc thì khỏa sào trên mặt nước. Chọc
sào vào bờ này ghe lại chúi sang bờ kia, lại phải chọc bờ kia cho ghe trở lại… Thế
là ghe trở về đi rất chậm.
Đến
một ngã 3 chúng tôi xác định được lối rẽ và chừng khoảng hơn 7pm chúng tôi đã về
được nơi xuất phát, chắc cũng mất chừng gần 3 giờ vật lộn với cái ghe, tay chân
rã rời vì mệt mỏi.
Anh
cán bộ huyện đội bảo tớ cứ tưởng bọn tụi bây lạc lối định vào tìm, thôi ra kênh
tắm rửa rồi đi ăn tối. Anh đưa bọn tôi tới một nhà mái tôn khá rộng rãi nói hôm
nay tụi bây ngủ ở đây, mai đi xe lôi lên lộ đón xe đò về. Hồi chiều ông Hai Bùi
Phước về rồi.
Ra
kênh tắm nhanh kiểu Nam bộ[3], chúng tôi thay bộ đồ mới
rồi đi ăn tối. Khi đến đã thấy mọi người đang quanh bàn ăn, có khoảng 4-5 người
đang nhậu. Cái bàn ăn kê ở mé bờ kênh có vài món ăn trên bàn. Họ bảo chúng tôi
lấy ghế kê ngồi và ăn như mọi người. Có một chị tiếp món cho bàn ăn, anh Trung
và tôi nhập mâm kiểu tự nhiên, mọi người chẳng ai để ý gì đến chúng tôi. Vì đói
nên tôi muốn ăn cái gì đó mà chỉ thấy trên mâm có mấy thứ rau sống và nồi nước đang
sôi màu đục để trên cái bếp lò than củi đang đỏ hồng. Rau thì nhúng vào nồi hoặc
ăn sống. Trong nồi là cá hay gì đó không rõ vì trời tối mà ngọn đèn bão lại không
đủ sáng, lại ưu tiên sáng chỗ chị phục vụ tiếp món ăn cho mọi người.
Món
rượu thì không thiếu, có mấy cái bọc nâu đựng rượu và cái chai để rót. Lần đầu
tiên tôi biết được kiểu uống rượu một li: vòng đến tay ai thì người đó uống.
Tôi ăn được ít rau thì đến lượt uống vội đỡ lấy li uống một hơi, rượu trắng
nhưng nhạt, không thấy vị gì nơi cổ họng. Cứ thế việc ăn uống kéo dài mấy tiếng,
khoảng 9pm thì xong.
Cho
đến nay tôi vẫn còn nhớ rất rõ mấy việc:
-
Về công việc, tại
sao đi công tác mà ông Bùi Phước lại không nói cho chúng tôi biết đi đâu, làm
gì, cần phải chuẩn bị gì. Hôm sau về Cục, anh Trung nói với ông về tình hình
nơi chúng tôi đo ruộng, tôi không thấy ông nói gì và cũng không thấy ai nhắc
chuyến đi của chúng tôi. Mặc dù tôi và anh Trung cũng sơ bộ tính được diện tích
có lúa ở những chỗ chúng tôi ước được diện tích.
-
Cách uống rượu
dân dã Nam bộ: uống một li theo vòng. Cách uống này rất hay vì bình đẳng, không
đẳng cấp của những người trong mâm, không cần giữ ý. Một người chậm uống có thể
ảnh hưởng đến người khác nên cứ chậm trễ một chút là bị nhắc nhở. Cách uống này
còn cái hay nữa là chỉ vài vòng đầu thì mọi người còn nói được những chuyện chung
chung gì đó, nhưng sau chỉ còn chuyện đến lượt uống, chuyện chấp hành uống,
chuyện tếu quanh kiểu uống của từng người: người bụp, người mút mút, người ngậm
cả cái li không cần tay, khi nhả ra giơ tay đón lấy đưa cho người khác… Thành
ra uống đến say mà cơ bản chỉ có vui, không ai nói xấu ai, nhất là nói xấu những
người không ngồi trong mâm. Có một thứ tôi thấy thật không hay là đa số cứ uống
xong là xịt ra một bãi nước bọt quanh bàn ăn. Đó là một thói quen mà hầu hết mọi
người bắt chước nhau, có những người xịt rất nhanh, gọn như kiểu bắn tia nước
qua kẽ răng. Đành rằng nhậu bên bờ kênh thì nhổ ra đâu cũng không làm sao nhưng
sau này tôi biết ngay cả trong nhà hàng trên phố cũng có kẻ giữ thói quen đó xịt
nhổ ngay trên sàn nhà. Tất nhiên kiểu uống rượu dân dã này thì không thể giữ vệ
sinh được: cái li chung miệng mọi người và mọi cái trên bàn đều là những thứ ăn
sống. Rau thì đủ mọi thứ kiếm được xung quanh như hoa chuối, đọt lục bình, ngó
súng,… còn nước ăn và rửa là nước kênh chung mọi sinh hoạt ăn uống tắm rửa, kể
cả nhà cầu WC…
-
Có một chuyện tôi
rất nhớ là chị phục vụ món hôm ấy: chị mặc bà ba đen, khăn rằn trên đầu, chị
làm món mà sau này tôi không gặp được ở đâu trên đời này: dưa leo lát mỏng, bắp
(ngô) bánh tẻ bóc bẹ dùng dao nạo thành lát mỏng cho đến khi hết hạt gặp lõi
thì dừng. Hai thứ đó cho vào một nước gì đó màu đục để làm món canh ăn rất
ngon. Sau này có lần tôi gợi ý để “bà lão” nhà tôi nấu mà bà ấy bảo không biết
làm. Tôi được thấy và ăn một lần trong đời – không biết gọi tên là gì nhưng nó
đã thành “di sản kí ức” của tôi.
Đây
là chuyến đi công tác lần đầu tiên của tôi ở QK9. Sau này tôi còn nhiều chuyến
đi rất đáng nhớ nữa về những miền đất phù sa xa xôi với lòng đầy háo hức tìm hiểu
và cảm nhận. Tôi hi vọng sẽ viết được những cảm giác của tôi khi đó trong từng
chuyến đi kết hợp với những điểm mang ý nghĩa “tổng kết” của ngày hôm nay. Tôi
thấy con người và sông nước đồng bằng Cửu Long luôn gần gũi và dân dã, giản dị
và rất sâu nặng, mang tình cảm tha thiết nhớ suốt đời!
[1] Xem thêm ở bài https://lehuuanhghichep.blogspot.com/2024/12/cuc-kinh-te-qk9-vai-bieu-hien-quan-he.html
[3] Lội cả người xuống kênh, tắm xong quấn xà rông khăn rằn
sọc quanh bụng lên bờ thay quần áo.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét