b/
Chuyến đi NTQĐ Vĩnh Điều
NTQĐ
Vĩnh Điều có diện tích tự nhiên 4000ha nằm sát kênh Vĩnh tế thuộc huyện Hà Tiên[1] nay là huyện Giang Thành,
Kiên Giang.[2]
NTQĐ Vĩnh Điều khi đó chỉ có bộ khung gần chục người được bố trí trong mấy lán trại lợp tôn đóng gần bờ kênh Vĩnh Tế, trên đất ấp Mẹt Lung, cách Rạch Giá khoảng 80km. Lần tôi đến Vĩnh Điều được Tỉnh đội Kiên Giang cho một chuyến ghe máy đi từ sáng đến gần tối mới tới nơi. Tôi đi một mình, chỉ có một binh sĩ lái ghe mặc đồ dân sự màu đen, da đen nhẻm im lặng ngồi điều khiển ghe. Ghe có máy nổ lớn nên đi khá nhanh.
Ghe
đi trong vùng nước phèn nặng, nước trong như màu nâu đen, rất ít thấy bóng tôm
cá hay các côn trùng bay nhảy dưới nước và 2 bờ kênh. Mùa khô nên trời rất nắng
và nóng. Giá khi đó mà có cái flycam như bây giờ quay cảnh 2 chúng tôi
đi trên kênh thì chắc như đóng phim hoang dã giữa cánh đồng mênh mông của vùng
chua phèn hoang vu Vĩnh Điều. Cả một vùng mênh mông bát ngát nhìn không thấy
khu dân cư chỉ có cánh đồng hoang bằng phẳng cho cỏ mọc trên đất nặng phèn cuối
“tứ giác Long Xuyên”, vùng Vĩnh Điều như cái túi chứa phèn từ Long Xuyên
đổ về. Vùng này nghe nói khi ấy còn có Nông trường quốc doanh Vĩnh Điều[3] từng được ông Thứ trưởng Nguyễn
Công Tạn tổ chức thí điểm dùng máy bay sạ lúa.
Khoảng
hơn 1 giờ chiều, chúng tôi đang đi trong cảnh nắng nóng nhất trong ngày thì thấy
từ xa trên bờ kênh có bóng người. Đến gần chúng tôi thấy 3 mẹ con một người đàn
bà nhỏ bé đen thủi như người Khơ-me. Bà mẹ bế trên tay một đứa bé không rõ trai
hay gái và một cô bé đứng bên im lặng. Anh lái ghe dừng lại hỏi chuyện và chống
sào để ghe đứng hẳn cho người đàn bà xuống, tôi đỡ em gái ngồi vững trong lòng
ghe cạnh người người đàn bà. Chị ngồi sau lưng tôi quay mặt về phía anh lái
ghe, bé gái ngồi cạnh và chị vẫn bế đứa con nhỏ trên tay. Cả 3 im lặng trong
khi ghe tiếp tục phóng về phía trước. Tôi đoán nghĩ rằng có lẽ con nhỏ chị đang
bị ốm và chị liều đi bộ từ một ấp nào đó ra đây chờ cơ hội có ghe qua để “quá
giang” đi đâu đó theo hướng ghe tôi đang đi tới.
Khoảng
chừng 3 giờ chiều, tức là sau khi xuống ghe được chừng vài giờ thì chị xin lên ở
một nơi khá gần khu dân cư, nhìn cũng thưa thớt dân chứ không trù phú gì lắm.
Chị bế đứa con và dắt theo bé gái lên bờ. Chúng tôi chào nhau và cho ghe chạy
tiếp, tôi nhìn theo chị với ánh mắt vô cùng ái ngại, bé gái đứng nhìn chúng tôi
buồn so. Thực sự tôi không biết họ đang đi đâu, họ đang có vấn đề gì nhưng chắc
chắn một điều rằng họ là những người nghèo khổ và ốm yếu, đang vùng vẫy tìm đến
một sự cứu trợ nào đó trong cái ấp nhỏ bé kia. Có lẽ ở đó có bàn tay giúp đỡ của
người thân, hay có ông bà thầy lang nào đó có thể cứu giúp hoạn nạn cho người
nghèo không có tiền… Thương lắm và vô cùng ái ngại trong tâm tư tôi chiều đó.
Khoảng
gần 4 giờ chiều, chúng tôi đến khu vực NTQĐ Vĩnh Điều. Nông trường bộ đóng tại
cuối khu một dân cư khá đông dân – đó là ấp Mẹt Lung (nay là Thị trấn Mẹt Lung).
Tôi lên bờ đi vào căn nhà chính lợp tôn trống hoác. Có mấy anh em binh sĩ ra đứng
nhìn. Tôi trình bày nội dung công tác thì một anh đưa tôi tới ngồi bên cái bàn
thấp kê ở góc nhà, nơi đó có chỗ ngồi là mấy cái gốc cây cưa ngắn ngả nghiêng
và một cái bàn 4 chân đơn sơ. Bên ngoài là một hàng lu nước chạy dọc theo hiên
nhà. Nhìn ra bên là cái lán nhỏ làm bếp nấu ăn. Một cái xoong quân dụng bỏ
ngoài nắng, bên trong còn một ít cơm gạo đỏ khô quắt cứng ngắc. Hai con chó
phèn gầy ngồi nhìn bâng quơ ra bờ kênh chẳng thèm đứng dậy sủa hay chạy ra sân
kể từ lúc tôi vào doanh trại.
Anh
lái ghe lên chào tạm biệt tôi và lộn ngược trở lại một mình, không biết anh có
đi thẳng về Rạch Giá đêm nay hay phải ghé ngủ đêm ở đâu đó khu vực Hòn Đất. Anh
đã đi với tôi suốt gần 8 giờ, nay sao quay về cho kịp?
Mấy
anh em binh sĩ bảo tôi đưa ba lô vào dãy liếp kê nằm ngủ. Đó là một hàng tấm liếp
để trải chiếu kê liên tiếp trên các thanh gỗ có 2 đầu là cọc gỗ chôn xuống đất.
Phía vách là các màn vắt ngang dọc rất tùy tiện những quần áo ngả nghiêng trên
cái dây chạc buộc dọc theo các tấm liếp ngủ. Chiếu thì cũng đều cuộn lại đầu liếp
nằm, chắc bên trong là tấm đắp hoặc cái gối gì đó. Tôi được chỉ một chỗ để ba
lô, một anh bạn đem cho tôi cái chiếu ngắn, còn màn và tấm đắp thì tất nhiên
tôi có mang theo trong ba lô rồi.
Anh
em dẫn tôi ra kênh tắm rửa thay quần áo. Tôi cũng đã quen tắm kiểu Nam bộ rồi:
chỉ ùm xuống kênh rồi lúc lên có cái khăn rằn che thay đồ hoặc quấn kiểu xà-rông.
Nước kênh mát có vẻ bớt phèn hơn, tắm rửa không thấy thoải mái lắm. Lúc này đã
về chiều nên mát gió đồng, nhưng cái cảm giác sạch sẽ thì không có vì tôi cứ thấy
cái gì đó cứ sin sít trên da mình từ lúc tắm xong. Dù sao thì cũng hết mồ hôi
và bụi bặm dọc đường.
Mấy
anh em xúm xít nấu nướng bên cái lán đơn sơ có cái giá để xong nồi và bát. Họ
đóng mấy cây tràm và gác ngang những cành tràm để làm nơi để bát, còn các xong
nồi thì treo trên vách như kiểu các căn bếp ở nhà dân Nam bộ. Khoảng tắt mặt trời
thì mọi người cùng đứng ngồi ăn quanh cái bàn bên ngoài sân cũng được thiết kế
kiểu cọc tràm và các thân cây trải lên trên. Có khoảng 7-8 anh em, đa số cởi trần
mang xà lỏn, tự ra lấy cơm trên một cái xoong quân dụng lớn nấu cơm gạo màu đỏ
hồng. Trên bàn ăn là một nồi cá kho mặn và mấy cái tô lớn đựng canh rau gì đó
lúc chiều tôi thấy một anh đi từ ấp mang về, chắc là mua của dân ngoài ấp. Ăn uống
nhanh và cười đùa vui vẻ của mấy em trẻ tuổi nên dường như không ai thấy cái cực
khổ hay ngại ngùng gì khi có thêm tôi mới đến.
Ăn
xong một lúc thì mọi người ra ngồi ngoài sân hóng gió và trêu đùa nhau. Một lúc
sau tôi thấy một anh mới về, chừng gần ngoài 30 tuổi, ăn mặc dân dã. Một em
nhanh miệng báo cáo chỉ huy hôm nay có khách đến công tác từ quân khu mới về.
Anh ta bắt tay tôi và giới thiệu là người được giao chỉ huy ở đây. Tôi cũng giới
thiệu và trao đổi về nội dung công việc đến công tác lần này. Anh vui vẻ hỏi
han vài câu chuyện đi lại và nói tôi cứ nghỉ ngơi rồi từ từ nắm tình hình đơn vị
theo yêu cầu của tôi. Có lẽ anh đã đi đâu đó từ chiều và đã ăn cơm ngoài ấp rồi.
Anh có căn dặn anh em quan tâm giúp tôi nơi ngủ và làm quen ăn uống. Ngồi chơi
một lúc rồi tôi thấy anh nói riêng gì đó với một em và quay lại chia tay tôi rồi
đi về phía ấp Mẹt Lung.
Ngồi
lại cuối cùng còn lại khoảng 6 người, ít hơn số người lúc ăn. Trong số đó có một
em nói giọng Bắc. Em tên Hiển, người Thường Tín, Hà Tây. Hiển đi lính nghĩa vụ bổ
sung cho một đơn vị bảo vệ biên giới, nay được tăng cường cho quân số nông trường
Vĩnh Điều từ hơn nửa năm nay. Hiển vui tính, nói nhiều và nhộn nhất trong số
anh em người Nam còn lại. Buổi tối hôm ấy và các buổi tối sau đều là do Hiển tổ
chức cầm chịch các nội dung vui nhộn. Đa số là tếu táo, có cả đàn 5 dây cho mấy
em người Nam gẩy tưng tửng để ca vui cải lương với lời ca tự đặt tầm phào cho
vui chuyện.
Một
lúc sau thì thấy 2 em đi từ phía ấp mang về một con vịt. Mọi người vui vẻ bảo tối
nay đón khách có món cháo vịt uống rượu chơi. Thì ra anh chỉ huy lúc nãy nói nhỏ
với mấy em ra ấp mua vịt về đãi tôi. Vài em lại vào bếp để rồi chừng hơn 1g sau
đó hì hục mang ra một nồi cháo to bự, bên trong có con vịt được xẻ đôi. Một em
vớt vịt ra cái chậu nhôm để xé gỡ cho tiện và múc cho mỗi người ngồi quanh một
chén cháo nóng. Rượu thì rót từ cái bọc nilon ra 2 cái li uống nước nhỏ để uống
kiểu xoay vòng, cùng lúc xuất phát 2 li rượu từ 2 đầu theo chiều ngược nhau. Ăn
uống nói cười vui vẻ đến hơn cả giờ đồng hồ. Hai con chó phèn ngồi bên im lặng,
thỉnh thoảng được mấy mẩu xương vịt ném ra nhưng chúng không có vẻ dữ dội tranh
cướp nhau.
Khoảng
10 giờ đêm mọi người đi ngủ. Ai cũng mở chiếu ra, mắc cái màn rồi chui vào. Cái
lán không có cửa trống hoác nên gió thổi thốc vào, khá mát với không khí đêm Nam
bộ. Tôi trằn trọc khó ngủ vì nhớ cảnh qua cánh đồng hoang lúc đi đường, nhớ
hình ảnh người đàn bà 2 con và ánh mắt em bé nhìn buồn tủi. Lại nghĩ người lính
biên giới Tây Nam sống vô tư và vất vả quá, họ làm sao tròn được cái sứ mệnh
làm kinh tế trong vùng đất nông trường mênh mông chua phèn này? Rồi tôi cũng
ngủ ngon vì một ngày nắng nóng mệt nhọc.
Sáng
dậy thấy mấy anh em xách nước nấu nướng gì đó. Tôi ra lu nước đánh răng rửa mặt.
Các lu mới được đổ đầy nước xách từ kênh lên và cái que đánh phèn còn để nguyên
ở trong mỗi lu. Nước dùng để ăn và rửa mặt đều phải đánh phèn cho các phù du lắng
xuống đáy lu, phần nước trong nổi phía trên. Bữa ăn sáng cũng là một nồi cơm gạo
đỏ hồng trong cái xoong quân dụng và mấy con cá kho mặn. Ai cũng tự lấy phần
cơm và ngồi đứng ăn vui vẻ.
Khoảng
8 giờ, anh chỉ huy hôm qua đi bộ từ phía ấp vào nói chuyện với tôi. Anh có vẻ
không tỏ ra thân thiện hay quan tâm lắm. Tôi hỏi anh về tình hình chung, anh với
tay lên mái tôn lấy xuống một gói giấy rồi giở ra để trình bày. Tôi thấy có sơ
đồ đất đai nông trường, mấy cuốn sổ nhỏ có ghi chép những con số, những sự kiện.
Đại loại anh nói về việc anh được phân công về đây từ một đơn vị bộ đội bảo vệ
biên giới vùng An Giang. Anh về đây thì cơ ngơi nông trường chỉ có thế. Số quân
biên chế gần chục người, chẳng có giấy tờ hay nhiệm vụ gì rõ ràng. Bên kia bờ
kênh là mấy cái đầu máy để nghiêng ngả được cấp từ quân khu, chỉ sử dụng khi
vào mùa cày nhưng thực ra khi vào vụ thì cấp trên còn cho thuê máy của dân cày
đất, thuê người gieo sạ. Hết tiền thuê thì nghỉ, chẳng kể cày và gieo được bao
nhiêu đất. Rồi chờ khi thu hoạch lại thuê dân gặt đập và đóng thóc vào bao chở
đi theo đường kênh đến một điểm nào đó do Tỉnh đội yêu cầu. Thế là xong một vụ,
rồi lại đợi năm sau vào vụ khác. Ở đây chỉ làm được một vụ nên khi gặt xong đất
như hoang hóa cả mấy năm trời. Anh cũng nói thêm là đơn vị cũng được cấp một số
xăng dầu dự phòng cho các máy được quân khu giao, nhưng mức cấp rất ít, lại
không có thợ lái thợ máy chuyên nghiệp nên vào mùa cày cũng chỉ chạy được vài
ngày rồi thuê dân cày là chính.
Anh
nói với vẻ thờ ơ, không quan tâm gì lắm. Anh cũng không có đề xuất hay kiến nghị
gì, hoàn toàn như ngoài cuộc với nhiệm vụ được giao ở đây. Thường tôi với tư cách
là trợ lí quân khu đến công tác, khi trao đổi công việc hỏi han tình hình thì
luôn được nghe những kêu ca và đề nghị cấp trên. Nhưng ở đây thì anh không kêu
ca gì, hoàn toàn vô tư với tình hình. Trưa đó anh ở lại ăn cơm với tôi. Bữa cơm
có thêm nhiều rau và món cá canh chua Nam bộ, lại có thêm mấy bọc rượu nếp
than.
Tôi
hiểu được qua câu chuyện với người chỉ huy ở đây là các anh em bộ đội được giao
trông nom (kiểu cho có mặt) một khu đất được xây dựng NTQĐ, nhưng chỉ là trông
coi thôi. Khi đến mùa thì các công việc như đốt đồng, cày ruộng, gieo sạ rồi chờ
gặt phơi… đều là thuê cho người địa phương theo số tiền được giao. Bên kia bờ
kênh còn một số máy nằm dầm mưa dãi nắng. Có lẽ đấy là khoản đầu tư tính theo
trang bị của đơn vị. Một bộ khung như thế chỉ là được giao giữ đất ở một vùng
khai hoang không có dân cư để phòng khi có biến thì ém quân, hoặc lấy cớ ém
quân để sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới.
Tôi
có cả hơn chục ngày ở đây để chứng kiến những khó khăn về cuộc sống của người
lính làm kinh tế vùng biên giới Tây Nam.
Về
ăn uống, bộ đội chỉ được cấp gạo hàng tháng, còn các nhu yếu phẩm khác như mắm
muối, thực phẩm,… đều không có. Tất nhiên quân trang, đồ dùng cá nhân thì được
phát theo tiêu chuẩn hàng năm, nhưng thường lính đem bán hết để mua thức ăn hay
nhậu. Điều kiện ở đây mỗi người chỉ cần một bộ đồ dài cũ mèm là được vì có bao
giờ họp hành hay công việc nghi thức gì đâu. Hàng ngày đa số xà lỏn và cởi trần,
hoặc có cái áo khoác bên ngoài như bà ba hay rằn ri đủ loại. Không có yếu tố
nào để nhận ra đấy là những người lính. Ngay cả anh chỉ huy tôi cũng không biết
anh cấp bậc gì.
Vậy
họ tổ chức ăn uống như thế nào? May cho những người lính ở đây là có thiên
nhiên hào phóng. Đơn vị đóng quân sát gần kênh Vĩnh Tế, chỉ đi chừng 500m là đến.
Kênh Vĩnh Tế chở nước ngọt sông Hậu từ Châu Đốc về Hà Tiên. Ngày xưa do Nguyễn
Văn Thoại tổ chức đào theo lệnh của Nhà Nguyễn[4]. Kênh có nước ngọt nên có
thể câu cá được. Chỉ cần mỗi ngày 2 người đi câu 2-3 giờ là đủ ăn cả ngày cho
7-8 người lính. Còn rau thì hoặc tự hái rau quanh ruộng hay vào dân xin hoặc
mua. Lính cũng trồng được vài loại cây như ngò gai, rau thơm các loại quanh bếp.
Có
một món thực phẩm tươi sống ngon lành là chuột đồng. Ở đây tôi được chứng kiến
cảnh anh em đi bắt chuột vui như hội. Một buổi tối trời, họ rủ tôi đi bắt chuột.
Bên kia bờ kênh là mấy cái máy, tưởng hư hỏng cả nhưng thực ra vẫn còn hoạt động.
Một anh lên lái một đầu máy ra cánh đồng cỏ chạy một vòng tròn to khoảng 50-60m.
Cỏ mùa này khô bị máy đè rạp xuống. Cứ thế máy chạy dần vào làm cái vòng mỗi lúc
nhỏ hơn và khi bên trong vòng còn bán kính vài chục mét thì anh em chạy trước đầu
máy để sẵn sàng bắt chuột. Thì ra khi đầu máy chạy quanh thì lũ chuột trong ruộng
cỏ cứ chạy ngược vào trong (vì quay ra gặp cỏ rạp xuống nên sợ không dám vượt
qua). Khi vòng tròn hẹp lại chúng chỉ còn biết liều chết vượt ra. Lúc thấy đèn
pha đầu máy sáng chói mắt, lũ chuột chạy từ bên trong vòng cỏ ra tự nhiên đứng
yên không chạy nữa. Thế là lính ta cứ việc túm đuôi xách cổ cho vào bao. Mỗi lần
như thế bắt được cả chục kí chuột tươi ngon làm thực phẩm cho tuần.
Cách
làm thịt chuột cũng thật là ấn tượng. Anh lính ngồi bên tấm gỗ kê cạnh bờ kênh
bắt con chuột tươi sống trong giỏ ra chặt bay đầu xuống kênh, lấy dao rạch một
đường trên lưng chuột, thế rồi lột da bỏ bụng, sau đó chặt 4 bàn chân. Con chuột
trắng tinh sạch sẽ được xếp chồng lên nhau mang về bếp nướng hoặc luộc. Thịt
chuột đồng giòn, mềm rất dễ ăn. Tuy không có nhiều gia vị nhưng món luộc được
xé ra chấm muối hoặc món nướng mà tẩm ướp vài gia vị đơn sơ thì thật ngon cho
các buổi tối ngồi lai rai bên mấy xị rượu đế.
Còn
món cháo vịt thì cũng rất phổ biến. Họ vào dân mua hoặc đổi gì đó lấy một vài
con vịt (đa số đổi dầu máy). Một nồi to được cho nắm gạo vào nấu cháo. Mỗi nồi
cháo to tướng là vừa đủ cho một con vịt gọi là cháo vịt. Khi cháo chín,
cơ bản vịt cũng mềm xương. Vịt được vớt ra xẻ nhỏ để lính ta mút rỉa xương, còn
nước cháo thành món nhậu lai rai cho cả hàng chục người, đủ bay dăm ba lít rượu
đế. Rất dân dã mà ngon đáo để: nước cháo đủ ngọt và vài mẩu xương được ngậm mút
cũng làm cho li rượu dễ trôi khi rượu đến lượt mỗi vòng.
Cái
cảnh vô tư của người lính là đáng nói nhất, cười đùa suốt ngày không mệt. Một
vài câu chuyện “quê tớ” được nhắc đi nhắc lại trêu nhau. Khoái nhất là em Hiển
người Bắc ra vế đố các bạn Nam rằng khi tàu điện ở Hà Nội chạy xuôi hướng Nam
mà gió nam thổi thì khói tàu bay về hướng nào? Ai cũng đoán trật hết vì anh ta
giải thích tàu chạy bằng điện thì làm gì có khói để gió thổi? Hay chuyện anh kể
“dân cầu tõm” đi rửa khoai, mang rổ khoai 10 củ đi rửa mà về đếm thấy 11 củ (để
kể về cái tục đi cầu ở Bắc khác với ở Nam). Còn một chuyện rất sôi nổi, đó là mấy
em chế lời bài hát “Tiểu đoàn 307”[5].
Mấy em bịa ra câu chuyện là hồi ấy xứ này có tiểu đoàn ngụy quân đóng ở đây hay
vào dân bắt đàn bà, dọa con gái. Thế là bài hát “Tiểu đoàn 307” được chế
thành “Tiểu đoàn quân xé váy” với những câu rất ngộ nghĩnh như sau:
“…
Ai đã từng đi qua Vĩnh Tế - Mẹt Lung, Vĩnh Tế - Mẹt Lung sóng trào nước xoáy.
Ai đã từng nghe tiếng tiểu đoàn, tiếng tiểu đoàn quân đi xé váy.
Buổi
xuất quân tiểu đoàn năm ấy, cả tiểu đoàn thề dưới cờ vàng người chiến sĩ một lòng
chịu chơi…
Xé
váy, xé váy, tiểu đoàn xé váy, xé đâu được đấy oai hùng biết mấy. Bao nhiêu con
gái trong vùng sợ hãi, bao nhiêu đàn bà trong vùng thất kinh”…
Dàn
đồng ca đủ giọng để cười vui trong một đêm không đèn không trăng. Mấy em người Nam
cũng có trò cải lương, nhảm nhí đủ thứ chuyện tự làm vui cho những đêm dài
trông coi cái NTQĐ 4000ha xứ này.
Hôm
trước khi tôi về anh chỉ huy vào ăn tối và ngồi nói chuyện khá lâu. Anh nói anh
có gia đình ở gần đây nên chỉ mùa sạ và mùa gặt mới có những ngày thường xuyên
ngủ lại, còn thì ở đây có việc gì đâu mà ở, mấy chú em này có mặt là được rồi.
Còn tình hình sổ sách thì anh biết rồi đấy, có hoạt động gì đâu. Khi nào đến
mùa sạ thì máy được thuê đến chạy. Máy của bọn tôi đa số để đấy vì có thợ lái hay
người bảo dưỡng gì đâu. Đến mùa lấy ra không chạy được mấy. Thuê dân họ cày, rồi
gieo sạ theo số tiền cấp trên thanh toán. Số liệu đó thì cấp trên biết hết cả rồi.
Thực ra chúng tôi cũng không biết là họ đã cày được bao nhiêu ha, sạ được bao
nhiêu ha, rồi gặt trên diện tích bao nhiêu ha, được bao nhiêu thóc. Chẳng có ai
yêu cầu báo cáo hay đánh giá gì, chuyện đó như của người khác làm trên cánh đồng
của mình. Chúng tôi có gần chục lính ở đây, cũng không được giao rõ ràng theo
kiểu biên chế đơn vị chiến đấu, lại cũng không có sổ sách hay lí lịch quân nhân
đầy đủ. Họ chỉ được phát gạo để sống như người giữ “cái vỏ” đơn vị NTQĐ chứ chẳng
có cái gì gọi là tổ chức, kế hoạch hay quản lý gì sất. Thôi thì cứ biết thế, để
xem tình hình biên giới ổn định rồi chắc người ta sẽ tổ chức lại.
Cứ
như bên cạnh là NTQD của Bộ Nông nghiệp người ta làm ăn quy củ lắm. Có Ban quản
lý nông trường, bộ máy kế toán, các đội sản xuất, hạch toán đầy đủ. Năm ngoái bên
ấy còn có máy bay sạ lúa giống trên đồng nữa. Mà sạ kiểu gì mà thóc giống rơi
ào ào vào vườn vào nhà dân, dân cười tưởng trời mưa thóc giống. Chắc sau này đất
khai hoang được đào kênh cấp nước xổ phèn để sạ lúa 2 vụ chứ như bây giờ mùa
khô chẳng làm được gì…
Anh
còn kể về cách làm lúa mà chỉ có gieo sạ rồi để đó không chăm sóc, không phân
bón, khi thu hoạch cứ gọi là “gạt cỏ tìm lúa” thì lấy đâu ra sản lượng chứ.
Thôi thì cứ biết vậy để xem người ta có những dự kiến gì để thay cái lối làm ăn
này. Anh nói anh cũng ngán mấy cảnh anh em ở đây không có việc, cuộc sống thì vất
vả. Tuổi trẻ tươi cười vô tư thế nhưng tương lai họ thế nào. Sắp tới mà yên
bình thì tôi ra quân còn về quê làm ăn, nhưng mấy anh em này những năm đi lính
chỉ làm các việc này thì thật phí quá, không được rèn luyện, không được học
hành lãng phí cả cuộc đời tươi trẻ…
Tôi
cũng chỉ biết nghe và nói vài câu theo những gì anh chiêm nghiệm. Một lát sau
lính bảo cháo đã chín, vịt đã vớt ra mời các thủ trưởng ra nhậu. Buổi nhậu cháo
vịt chia tay vui như lính, lại cải lương, lại hát bài “Tiểu đoàn xé váy”…
À
còn chuyện này tôi muốn nói. Khi tôi theo anh em ra kênh Vĩnh Tế câu cá, thấy
cái kênh cũng chẳng to lớn gì, chỉ lội là qua được bên kia. Chỗ nào nước sâu
thì cũng bơi mấy sải là qua. Bờ kênh bên này thì thành đường đi, còn bên kia
thì cỏ ngút ngàn. Anh em nói bên này kênh là đất Việt Nam, còn bên kia là đất Campuchia.
Bên Campuchia không có dân, ngút ngàn tầm mắt chỉ thấy màu xanh cỏ trên cánh đồng
bằng phẳng. Thì ra cái ông Thoại Ngọc Hầu đào cái kênh này để xác định ranh giới
lãnh thổ vì hoang vắng thế lấy gì làm dấu mốc chủ quyền. Hồi chiến tranh biên
giới, quân Pol Pot đã tràn sang Việt Nam đánh giết hàng trăm dân làng (tại Bảo
tàng chứng tích tội ác Khơ me đỏ tức Nhà mồ Ba Chúc ở Tri Tôn, An Giang). Cuộc
chiến đã hết, bên ta bắt đầu cuộc sống yên ổn làm ăn, còn bên họ vì không có
người nên bỏ hoang tất cả. Tôi lội qua đứng một lúc bên kia bờ kênh để có cảm
giác lần đầu tiên được bước đi trên đất nước khác, gọi là cảm giác lần đầu
tiên được ra nước ngoài. Vào 12/2023, chúng tôi có dịp đi từ Châu Đốc về Hà
Tiên trên bờ kênh Vĩnh Tế bằng ô tô du lịch 29 chỗ. Đến thị trấn Mẹt Lung,
chúng tôi dừng xe để nhìn sang bên kia biên giới. Bên kia bây giờ là cánh đồng
lúa xanh tươi, thỉnh thoảng có những căn nhà dân thưa thớt kiểu Nam bộ. Mọi người
nói bây giờ biên giới ở cách đây hàng mấy chục km kể từ kênh Vĩnh Tế. Người dân
Campuchia sau chiến tranh đã bán đất cho dân Việt Nam canh tác. Sau nhiều năm
thì người Việt Nam mua đất đã cất nhà sinh sống trên đất họ đã mua, tổ chức
canh tác và làm ăn, nay thành ấp người Việt. Vì thế biên giới đã lùi xa hàng mấy
chục km là thế. Đúng là sau 40 năm cả cái biên giới cũng thay đổi, chỉ có dòng
kênh Vĩnh Tế thì vẫn âm thầm chở nước ngọt trôi như mấy trăm năm trước!
c/
Chuyến đi Nông trại Hòn Đất và An Biên
Tôi
còn có chuyến đến nông trại Hòn Đất và An Biên trong một lần công tác khác
nhưng thực ra tôi đi cùng mấy anh ở Tỉnh đội nên không ngủ lại và vì thế đến
nay tôi cũng không nhớ được gì cả. Chỉ còn nhớ được anh em đưa đến bờ biển Hà
Tiên và đã từng thấy hòn Phụ Tử rất đẹp gần bờ biển Hà Tiên (nay phần lớn hòn
Phụ Tử đã bị đổ sụp xuống biển[6]).
Hồi
đó tôi rất muốn được đi vùng Vĩnh Thuận để biết thế nào là U Minh thượng nhưng
không có dịp. Thật tiếc là không biết được rừng U Minh nổi tiếng từ phía Kiên
Giang. Cũng may là vào 1983 tôi được đi công tác vùng U Minh hạ trong một chuyến
đi đáng nhớ khác. Hi vọng tôi sẽ có dịp kể về ấn tượng rừng U minh hạ trong kí ức
tôi.
Tái
bút
Trong
ghi chép ở sổ tay của tôi còn có một nội dung về Biên bản làm việc 21-2-1981 giữa
Bộ Nông nghiệp (do Thứ trưởng Nguyễn Công Tạn kí) và Bộ Quốc phòng (do Thứ trưởng
Đặng Kinh kí) về quân đội tham gia xây dựng kinh tế ở Đồng bằng sông Cửu
Long trong đó có nội dung lực lượng triển khai dự kiến: bắc Hà Tiên: 1,4 vạn
quân, An Biên: 3.000 quân, Vĩnh Hưng: 3000 quân. Rõ ràng đây là chuyện bộ đội
không chỉ là làm kinh tế ở vùng biên giới Tây Nam này.
[1] Chính phủ ban hành Nghị định
47/1998/NĐ-CP, tách một phần diện tích và dân số của huyện Hà Tiên để thành lập
thị xã Hà
Tiên (nay là thành phố Hà Tiên).
[2] Từ tháng 2 năm 1976, Hà Tiên là một huyện thuộc tỉnh Kiên Giang. Từ tháng 7 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định
47/1998/NĐ-CP, tách một phần diện tích và dân số của huyện Hà Tiên để thành lập
thị xã Hà Tiên (nay là thành phố Hà Tiên). Năm 1999, Chính phủ ban hành
Nghị định số 28/1999/NĐ-CP, đổi tên huyện Hà Tiên thành huyện Kiên Lương. Năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết
số 29/NQ-CP, thành lập huyện Giang Thành trên cơ sở điều chỉnh diện tích và dân
số của huyện Kiên Lương.
[3] Khi đó Bộ Nông nghiệp cũng có nông trường quốc doanh Vĩnh
Điều trồng lúa.
[4]
Kênh được
gọi theo tên vợ của Thoại Ngọc Hầu
tức Nguyễn Văn Thoại (sinh năm 1761, người gốc Điện Bàn, Quảng Nam (nay là Sơn
Trà, Đà Nẵng). Vợ ông là Châu Thị Tế còn có tên gọi khác là Châu Thị Vĩnh Tế (sinh
năm 1766, người Vũng Liêm, Vĩnh Long.
[6]
Rạng sáng 9-8-2006, mưa dông, sóng lớn đã làm hòn Phụ (hòn lớn) cao 33,6m của
hòn Phụ Tử gãy đổ thành nhiều đoạn, chìm xuống biển. Theo https://tuoitre.vn/du-lich/10-nam-hon-phu-tu-gay-do-bao-gio-khu-du-lich-hoi-sinh-1183393.htm#:~:text=R%E1%BA%A1ng%20s%C3%A1ng%209%2D8%2D2006,nhi%E1%BB%81u%20%C4%91o%E1%BA%A1n%2C%20ch%C3%ACm%20xu%E1%BB%91ng%20bi%E1%BB%83n
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét