Thứ Sáu, tháng 7 05, 2024

Làng Phúc Ấm - Một vài ý ngoại suy (Bài 4)

1. Phúc Ấm nhất định là ngôi làng cổ, có niên đại không kém các làng cổ khác trong vùng. Một ngôi làng cổ có nhiều dấu tích di sản, từng có chứng tích Mả Tàu và cách quận lỵ (đơn vị trực thuộc nhà nước) 2 km là chứng cứ về sự cư trú lâu đời. Tiếc thay điều đó nay không còn nữa! Những tàn tích của di sản còn in mãi trong thế hệ những con người đã từng chứng kiến. Rồi đây, những biến động của đô thị hóa, làng Phúc Ấm có thể còn bị thay đổi nữa, nhưng hào khí nghìn năm sẽ còn mãi trong tâm hồn của những con người làng Phúc Ấm.

2. Phúc Ấm chắc chắn là làng có nhiều đóng góp cho đất nước. Những giá trị đóng góp được thể hiện thời xưa còn được nêu trong di sản của địa phương, những giá trị thời đại là lớp lớp con em lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, hàng trăm liệt sĩ, thương binh đã đổ máu chiến trường, là con em tham gia hoạt động chính trị, quân sự, khoa học và các hoạt động kinh tế xã hội khác trên mọi miền đất nước. Những kết quả mà họ tạo ra chắc chắn mang trong lòng niềm tự hào từ nơi sinh ra, lớn lên, hội tụ trong họ là tình yêu đất nước từ tình làng nghĩa xóm quê hương Phúc Ấm.

3. Phúc Ấm là làng quê truyền thống văn hóa, yêu văn hóa. Những giá trị di sản là tín ngưỡng tâm linh, là kết tinh của lòng yêu mến quê hương, là biểu thị ứng xử văn hóa. Những năm chiến tranh chống Mỹ ác liệt, dân làng náo nức thưởng thức các buổi chiếu phim lưu động, những đêm xếp gạch sân làng chờ xem hát bội tự biên... Đói no từng trải rau má, cháo khoai nhưng sẻ chia những "nhén lúa lỏn", những củ khoai "móc lọng" xơ sượng là hương vị không thể quên trong những bữa ăn giáp hạt để hình thành kí ức về vị, về hương tạo nên giá trị văn hóa ẩm thực tinh tế mà đậm đà của những món nổ rang làm lớ, bánh đúc lá chuối, chè lam "trấy cố"[1]...

4. Phúc Ấm là quê hương đồng chiêm trũng thuần nông[2], những người con của làng không ai quên những trải nghiệm bắt ốc, kéo te, đánh dậm... đầu đời. Cánh đồng ngập nước quanh năm đã tạo ra hàng trăm kiểu kiếm cá sinh nhai... đầy sáng tạo[3] như đẩn cườn, câu cặm, câu nhắc, đẩn riu, tát đằm, khoát nơm... sau này là ống lươn, đèn man, đặt lờ (lầu) cá rô, đơm tép... Đơn giản cuộc đời, sống hiền hòa củ khoai, ngọn lúa, con tép, con tôm,... mỗi con người làng Phúc Ấm mang nặng tình quê, chăm chỉ kiếm ăn, tích lũy kiến thức, lặng lẽ tình người... tạo nên những tâm hồn yêu thiên nhiên, sống không thể thiếu thiên nhiên bên mình...

 



[1] Những món ăn dân dã địa phương không thấy có ở những miền quê khác. Ghi chú: nhén (bông), lỏn: cắt những bông chắc hạt trước trong ruộng; móc lọng: đào luống khoai lấy tỉa củ non; lớ: món lúa lửng rang lên, giã lấy bột (cả trấu), xúc ăn bằng lá (lá cây gai nhọn, lá bưởi); trấy (trái), chè lam trấy cố: chè lam nặn tròn như quả cố (quả gáo ngoài Bắc).

[2] Ở Đông Yên có đền thờ Bà Bích – Bà chúa tép riu. Truy cập ngày 2-8-2021 tại https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_Y%C3%AAn,_%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n

[3] Lại những kiểu bắt cá ít thấy ở nơi khác: đẩn (đẩy), cườn: ván mỏng, có cái thang nhỏ để trước bụng, khi đẩy nước thì phải chạy thật nhanh để thấy cá loáng qua mà úp bằng nơm; đằm: một ao nhỏ giữa ruộng để khi gặt hay khi ít nước thì cá tập trung vào; khoát nơm: lấy chân té nước rộng ra phía, cá sợ chúi xuống bùn sẽ có dấu bùn thì lấy nơm úp; lầu (lờ); đơm tép: đắp bờ quanh chỗ nước sâu trên ruộng lúa, khi nắng lên thì lờ quay ra ruộng để nước ruộng nóng thì tép rút xuống chỗ sâu tránh nóng, chiều tối đặt ngược lại khi tép quay ra ruộng kiếm ăn lúc nước mát hơn...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét