Phúc Ấm (福廕 hay 福 蔭) tiếng Hán có nghĩa là "Điều may mắn tốt lành mà con cháu được hưởng từ ông cha để lại" hay "Phúc đức tổ tiên để lại cho con cháu". Nhiều địa phương trong nước có tên làng Phúc Ấm nhưng trong các huyện lân cận hiện không có làng nào mang tên Phúc Ấm. Không ai biết làng được mang tên này từ bao giờ. Thế hệ chúng tôi sinh ra và lớn lên ở làng, hiện nay nhiều người lập nghiệp và định cư nơi khác nhưng vẫn luôn tự hào về làng Phúc Ấm, luôn hướng về làng với tất cả tâm tư và nỗi niềm sâu lắng nhất.
1. Địa thế, địa hình
Phúc
Ấm nằm trong vùng đồng bằng thấp xen giữa các núi đá vôi và những
con sông tự nhiên. Các đồng bằng rộng trải qua hàng triệu năm hình
thành, được phù sa bồi đắp và bị chi phối bởi lũ lụt tự nhiên đã
tạo nên những vùng thấp màu mỡ xen những cồn bãi, những vùng trũng
ven sông. Đây là điều kiện để cư dân tụ tập sinh sống bằng nghề canh
tác lúa nước cổ truyền, thuận lợi cho lối quần cư tự túc để hình
thành các điểm "không gian làng" trong cư trú của người
Việt cổ. Cũng như những cánh đồng khác thuộc Bắc Trung bộ, những
dãy núi đá vôi, núi đất xen giữa tạo thành sinh thái rừng trên núi
đất, sinh thái nghèo cây cối trên núi đá vôi và sinh thái cây trồng
cạn, cây trồng nước vùng đồng bằng. Chính vì thế mà làng xóm -
điểm quần cư của người dân - trong hệ sinh thái chung như những bức
tranh non nước hữu tình, thành không gian sinh tồn bền vững. Con người
sống ở đây quen chịu đựng và chống chọi với thiên tai, có bản năng
sống mạnh mẽ, có tâm hồn khoáng đạt, yêu tự do và giàu lòng nhân
ái...
Các
làng được lập ban đầu có thể đều dựa trên những điều kiện địa hình
chung. Tuy nhiên mỗi làng đều có những điểm ưu thế đặc thù về đất
đai, sông ngòi, rừng núi. Làng Phúc Ấm không gần sát sông, không quá
xa núi[1], canh
tác chủ yếu dựa vào lúa nước. Tuy vậy, điểm ưu thế của làng là
được "dựa lưng" vào một dải đất nổi xen giữa các cồn bãi
liên miên, làm chỗ cao ráo để cư trú. Mặc dù không chống được lũ lớn
nhưng cơ bản có thể chống chịu được các thiên tai nhỏ, lợi dụng được
sông nước để canh tác và sống yên ổn.
Ruộng
đất ở làng thuộc vùng chiêm trũng, cách khoảng 3km về phía Nam là
núi Vàng (Hoàng Sơn), cách khoảng 1km về phía tây là sông Gốm (Hoàng
Giang). Xưa trong làng có rất nhiều ao sâu, có thể là cách lấy đất để tôn lên
làm nền nhà, làm vườn khi mở rộng thổ cư của dân làng. Việc bị ngập úng
ngoài đồng và lũ lụt trong làng phải chăng là sự tích làng có Nghè
thờ Tứ vị Thánh nương liên quan đến cầu an nghề sông nước?
Từ
khi người Pháp làm đập Bái Thượng[2] (khởi
công năm 1920, hoàn thành 1926, khai thác 1928) thì đất ruộng của làng
nằm ngoài đê nông giang qua làng nên hoàn toàn ngăn được nước sông Gốm
khi có lũ. Từ đó sản xuất của làng ít bị mất mùa (do ngăn được lũ
và quanh năm có nước tưới), dân cư trong làng có điều kiện kinh tế ổn
hơn. Năm 1974, tỉnh Thanh Hóa có phong trào thủy lợi, đê sông Gốm được
đắp cao hơn, uốn lại nhiều đoạn sông làm nước chảy nhanh, không còn
gây lũ cho vùng. Trận lụt lớn năm 1963 và trận lụt 1970, cả làng bị
ngập nước. Những lần lụt đó dân làng tôi bị nhiều thiệt hại về tài sản.
Ảnh 1 bên trái: Đoạn nông
giang nhiều Pháp thiết kế từ hồi xây đập Bái Thượng (nay đã được bê tông hóa - ảnh
chụp 2021)
Ảnh 2 bên phải: Một góc
xóm Phúc vẫn còn giữ được sự bình yên như hơn 60 năm trước (ảnh chụp 2021)
2. Về hành chính
Trước
1954, làng Phúc Ấm thuộc xã Đông Yên, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Địa danh Đông Sơn có tên từ thời nhà Trần, thuộc trấn Thanh Đô (1397)[3], nhưng
thời Bắc thuộc, vùng đất này thuộc huyện Tư Phố và huyện Cư Phong,
và xa xôi hơn nữa là nơi cư trú của người Việt trong văn hóa Đông Sơn
nổi tiếng. Thời nhà Nguyễn, Đông Sơn thuộc phủ Thiệu Hóa. Làng Phúc
Ấm khi đó thuộc tổng Lê Nguyễn (thời Gia Long), sau đó đổi là tổng
Thanh Hoa (thời Minh Mạng, 1824-1886). Thời các vua từ Thiệu Trị đến
Bảo Đại (1887 - 1945), làng Phúc Ấm thuộc tổng Tuyên Hóa[4]. Sự
thay đổi hành chính phụ thuộc vào chính quyền, nhưng tính chất cộng
đồng làng cơ bản ít bị ảnh hưởng bởi các thay đổi trong quản lý
hành chính.
Từ
năm 1954, làng Phúc Ấm tách khỏi xã Đông Yên, chuyển về xã Đồng Tiến
thuộc huyện Nông Cống. Sau đó, vào năm 1964, huyện Triệu Sơn được
thành lập, làng Phúc Ấm lại thuộc huyện Triệu Sơn. Những năm chống
Pháp, làng là nơi tản cư của các cơ quan tỉnh, nghe nói cơ quan tài
chính (Kho Bạc) tỉnh khi đó đóng ở làng (?).
Làng
Phúc Ấm có chiều dài hơn 1km, rộng 500-600m. Phía chính Đông là cánh
đồng thuộc đất của làng, xa tít tới giáp làng Hoàng Lạp (xã Đông
Phú) và cánh đồng xã Đông Văn. Phía Tây, sau dải đất cao "dựa
lưng" của làng là cánh đồng làng Đồng Vinh. Phía Bắc giáp cánh
đồng làng Đồng Pho (Đông Hòa) và cánh đồng thôn Tân Thành (Đông Yên).
Phía Nam giáp cánh đồng xóm Tâm (Đồng Thắng). Toàn bộ ruộng của
làng ở phía đông. Những năm 1960, trong làng có khoảng 200 nóc nhà
(hộ) với khoảng gần 1000 khẩu.
Từ
xa xưa, làng Phúc Ấm đã có 5 xóm: Phúc, Quý, Thọ, Khang, Ninh. Có
thể ngày xưa các cụ lấy Ngũ Phúc[5] để gọi
tên xóm. Từ 1960, tên gọi các xóm đổi thành Đồng Phúc, Đồng Quý,
Đồng Thọ, Đồng Khang và Đồng Ninh[6]. Tuy là
5 xóm nhưng cơ bản liền nhau. Riêng xóm Ninh sau này bị nông giang ngăn
ra thành xóm ngoài đê và thưa dân hơn do nhiều người chuyển vào định
cư trong làng cho đông vui. Xóm Ninh nay vẫn không có nhiều hộ cư trú. Từ
2019, tỉnh Thanh Hóa có mở đường lộ mới chạy qua, xóm Ninh thành xóm ven đường
rất đẹp và thuận lợi lưu thông nhất trong làng.
Trước
1945, làng Phúc Ấm có tổ chức thành 4 phe: Bắc, Nam, Đông và Đoài.
Các phe trong làng được tổ chức trên cơ sở xóm kết hợp với dòng họ
(có thể một số xóm là một phe, nhưng cũng có thể xóm kết hợp với
dòng họ để lập phe nên có khi các hộ cư trú ở xóm này nhưng lại
vào phe xóm khác). Mỗi phe chia nam giới thành các thứ bậc: lão
tiên, ông trùm, đến đội làng trai (từ 18-55 tuổi) và đội dự
bị gọi là tiểu tục (từ 15 - 18 tuổi). Các phe đều có điếm
canh (điếm phe). Tổ chức phe như dạng tự vệ cộng đồng kết hợp với
hệ thống quản trị hành chính hương lý trong làng.
3. Đặc điểm phong thủy và các di tích tín
ngưỡng tâm linh
Một
ngôi làng không lớn nhưng có đủ các điểm thuộc giá trị tín ngưỡng
tâm linh của nông thôn truyền thống: đình, chùa, nghè, Văn Chỉ, điếm
canh, cây đa, giếng nước...
3.1
Đặc điểm phong thủy
Như
đã nêu ở trên, làng Phúc Ấm có một dải đất cao chạy qua phía sau
làng. Nếu nhìn từ Mục Nhuận (Cẩm Nga) qua cánh đồng đến Cồn Vừng,
Cồn Mu, tiếp đến là Cồn Mã Bà, Cồn Càng, Cồn Núi, kéo đến sả
Vầu, Nghè làng, Chùa Vô, Chùa Nam, xuống đến Văn Chỉ và chùa Thiên
Thanh (thuộc Đồng Thắng) thì dải đất này dài khoảng 4-5km. Về địa
chất có thể còn liên quan đến Đồng Pho, Trường Xuân về phía Bắc và
kéo dài đến núi Vàng về phía Nam. Phần dải đất cao qua làng Phúc
Ấm làm thành vành đai bảo vệ làng, chống ngập nước từ cánh đồng
Bến tràn vào mỗi khi nước sông Gốm dâng cao. Dải đất cao ấy được
làng coi như vành đai phía Tây ngăn lũ và được coi là thế dựa vào đai
tự nhiên bảo đảm chống được thiên tai mức độ thấp. Dải đất này dễ
dàng nhận biết do cao độ địa hình cộng với hệ cây cối biểu thị mọc
theo dải đất này mà các nhà địa lý cho rằng chúng có lợi thế về
phong thủy. Đất nổi thành gò, cồn, bãi có chất đất khá tơi xốp, dễ
thoát nước, cây cối cổ thụ nhiều... Cồn Mu, Cồn Mã Bà, Cồn Càng,
Cồn Núi... có nhiều mồ mả phải chăng được coi là nơi đất tốt để mai
táng? Tại Cồn Núi, còn có di tích một số mả Tàu, có hình vòm xây
bằng thứ gạch lạ sau này phát lộ khi người Tàu (khách) giả danh bán
thuốc qua làng những năm 1930-1950 đào lên. Nghe nói ở đây còn được
người Tàu giấu của cải. Những năm 1960, Cồn Núi là nơi chăn trâu,
chúng tôi vẫn còn thấy những mảng vòm gạch. Những viên gạch không rõ
niên đại nhưng mỏng, nhẹ, rất khác với những viên gạch xây trong vùng.
Dân làng còn cho hay có một hốc chôn của cải bị đào bới ở chân con
chó đá dựng ở sả Vầu sau Nghè.
Nghè
Min (xã Đông Yên), Nghè Phúc Ấm, Chùa Vô, giếng Chùa, Ao hòn đá, Chùa
Nam, giếng Chùa Nam, Văn Chỉ, Chùa Thiên Thanh là những điểm tín
ngưỡng tâm linh đều nằm trên dải đất có phong thủy linh thiêng này.
3.2
Đình làng
Nếu
các điểm chùa, nghè, Văn Chỉ... đều dựa trên dải đất cao phía Tây
thì Đình làng Phúc Ấm lại được xây dựng trên khu đất được phía Đông.
Đình làng xây trước xóm Quý, cách các điểm dân cư khác khoảng vài
trăm mét, hướng ra cánh đồng lúa phía Đông lộng gió 4 mùa. Đình làng
được xây trên khu đất đắp cao, có giếng đình và cây cổ thụ (cây ngô đồng
thân gỗ, người dân quê gọi cây bông tây). Khi người Pháp cho đắp nổi nông
giang chạy trước cửa đình thì nền đình vẫn cao ngang mặt đê. Ngay
cạnh đình có một cống lớn cũng do người Pháp xây những năm 1920 để
thoát nước trong làng ra cánh đồng (đi ngầm qua nông giang). Trong ký
ức chúng tôi, ngôi Đình làng to như Nghè làng nhưng hình dáng thì cao,
sáng sủa, thoáng hơn kiểu kiến trúc Nghè thấp, tối, thâm trầm. Đây
là nơi tụ họp của dân làng nên Đình ở vị trí trung tâm để dân cư từ
các xóm đến đều tiện lợi như nhau, không có điểm xóm nào quá xa.
Cũng như nghè, điếm... đình làng sau này được dùng làm sân kho hợp
tác xã và sau đó phá lấy gỗ làm các cơ sở xây dựng trong xã những
năm thập niên 1970.
3.3
Các chùa trong làng và các chùa lân cận
Chùa
Vô hay Vô tự (ở xóm Phúc) và Chùa Nam (ở xóm Thọ) nghe nói bị phá
những năm 1947-1948 sau "Sự kiện Mậu Thôn"[7]. Trong
vòng bán kính khoảng 1-1,5km, xã Đồng Thắng có chùa Thiên Thanh, làng Đồng
Pho có chùa Thiên Phúc, làng Đồng Xá có chùa Bụt Mọc. Tại sao với
mấy nghìn dân trong vùng mà khi xưa có nhiều chùa như thế? Riêng làng
Phúc Ấm có 2 chùa chỉ cách nhau chưa đầy 500m. Điểm sót lại của các
chùa những năm thập niên 1960 là những cây cổ thụ và giếng đất. Các
cây cổ thụ đều đã mấy trăm năm, đại diện cho tuổi những ngôi chùa cổ
kính.
Tại
khu đất Chùa Vô, những năm 1960-1970 vẫn còn 3 cây cổ thụ rất to giữa
ruộng mạ (là muỗm hay quéo?), sau cũng bị cưa đốn lấy gỗ làm trường
học. Tại đó còn có một giếng Chùa (sau này khi Chùa không còn, dân
gọi là giếng Nghè). Nhưng năm đầu 1960, làng vẫn gánh nước ăn từ
giếng Nghè. Giếng khá lớn, trong xanh, đầy nước quanh năm, có một cái
cầu gỗ lim chắc chắn để mọi người quẩy gánh có 2 cái nồi vồm bằng
đất nung xuống, khỏa lấy nước (thời đó không có gầu mà trực tiếp
quẩy gánh có giắng (quang), xuống đến nước thì túm lấy giắng và
vục nồi vồm xuống cho nước chảy vào).
Xuống
thêm 500m về hướng nam là đến khu đất thuộc Chùa Nam. Di tích Chùa Nam
có thể cũng bị phá những năm 1947-1948. Nghe nói đây là ngôi chùa đẹp
trên khu đất vuông vắn và rất rộng. Ở đó có 2 cây quéo cổ thụ rất
lớn (người quê gọi cây thanh trà), tán rộng và cành thấp dễ leo và
cũng có một giếng đất to, nước trong xanh 4 mùa[8].
3.4
Nghè làng
Cũng
như các làng trong vùng, làng Phúc Ấm có Nghè to, đẹp còn tồn tại
cho đến cuối những năm 1960. Ngôi Nghè bề thế gồm nghè chính và 2 nhà
tả, hữu phía trước. Những năm đầu thập kỷ 1960, Nghè thành điểm
trường[9]. Còn
nhớ trong nghè chính có 4 cột chạm rồng vẫn còn dấu sơn đỏ, lại có
mấy con rồng đá ngoài cửa đã nhẵn thín do tụi trẻ ngồi cưỡi ở 2
bên cửa. Có cây đa cong ra phía đường đi, có 2 bia đá được đặt trên 2
tảng đá lớn (sau này được đem đi làm cống) và những con ngựa, voi đá
(không nhớ rõ). Cổng nghè thời đó đã hư hỏng, các đồ thờ không còn
gì. Nghe các cụ nói rằng nghè thờ Tứ vị Thánh nương đời Nhà Tống.
Tôi còn nghe thầy Nguyễn Hữu Hàm nói Nghè xưa có 2 câu đối tiếng Hán
nổi tiếng, Thầy đọc nhưng nay tôi chỉ còn nhớ mấy chữ là Hương
đảng tiểu triều đình[10]...
Hiện tượng thờ "Tứ vị Thánh nương" rất phổ biến ở
Việt Nam, riêng Thanh Hóa có tới 81 điểm thờ[11] (?). Di
tích đền Cờn ở Nghệ An là nơi thờ chính của "Tứ vị Thánh
nương" (nơi bè gỗ dạt vào). Các điểm thờ liên quan đến "Tứ
vị Thánh nương" thường gắn với nghề sông nước, cúng tế để
bảo đảm tâm linh cho người đi thuyền bè. Việc thờ "Tứ vị
Thánh nương" ở Nghè làng Phúc Ấm không rõ sự tích. Có lần
tôi nghe các cụ kể rằng một vị chức sắc trong làng đến Đền Cờn xin
được đoạn gỗ từ bè chở các vị Thánh nương nên đã đem về làm thành
4 bát hương thờ tự. Làng Phúc Ấm lập nghè thờ "Tứ vị Thánh
nương" được coi như thành hoàng che chở cho làng. Phải chăng
các vị chức sắc trong làng xây Nghè vì có liên quan đến nghề buôn
bán bằng thuyền từ Bến Sành (Gốm) vào xứ tận Nghệ?[12]
Tương
truyền Nghè rất linh thiêng, mọi người đi ngang đều phải cúi đầu, lấy
nón che mặt, nhất là đàn bà, con gái. Hàng ngày các cô, các bà đi
gánh nước giếng Nghè đều phải làm thế. Bà nào dám ngẩng nhìn thì
về đều bị đau mắt cả (!)
Ảnh
3: Bia Nghè làng bị làm nắp cống từ những năm 1960, nay được thu hồi để ở Nhà
Văn hóa thông Phúc Ấm 1 (ảnh tôi chụp 2023, hiện các chữ khắc trên bia đã bị mờ
không đọc được)
3.5
Văn Chỉ
Cách
Chùa Nam khoảng mấy trăm mét là đến điểm thờ Văn Chỉ của làng Phúc
Ấm. Chúng tôi lớn lên đã không còn thấy di tích này. Làng Phúc Ấm
có điểm thờ Văn Chỉ[13] cũng
là điểm lạ mà chúng tôi chưa tìm hiểu được hồi đó làng đã xây và
tế lễ thế nào. Nghe nói Văn Chỉ do các thành viên hội Làng Văn lập ra. Hàng
năm Làng Văn tổ chức thi thơ phú, chọn được bài nào hay thì khắc vào bia đá dựng
ở Văn Chỉ.
3.6
Cây đa Ao hòn đá
Có
một hòn đá cạnh bờ ao nghe nói là dấu mốc giữa xóm Phúc và xóm
Quý. Tại đây có cây đa to, rất cao, quả ngọt chín rụng vì ít có ai
trèo lên được. Không rõ cây đa sau này bị phá khi nào.
3.7 Điếm
Mỗi
xóm đều có điếm canh của phe. Phe Bắc có điếm phe xây ngay cạnh Nghè
làng. Điếm phe Bắc được xây to, chắc, cột lim, lớp ngói như ngôi đình
nhỏ. Các điếm phe khác tôi không còn nhớ. Đây là điểm canh an ninh và
nơi sinh hoạt cộng đồng phe. Sau này thành nơi sinh hoạt chung của xóm:
họp đêm, nghe đài galen, có khi là lớp học, có khi lại là sân phơi
của hợp tác xã (HTX). Mùa gặt, xóm gánh lúa về đây đánh kẹp, chia
thóc, chia rơm[14]...
4 Một số vấn đề còn chưa khảo cứu được về làng
Phúc Ấm
Một
là, Trong bán
kính cách làng Phúc Ấm khoảng 10 km có rất nhiều làng cổ và những
địa danh nổi tiếng (Xin nói thêm ở Bài 2). Làng Phúc Ấm được lập từ
khi nào, tồn tại trong quan hệ với những địa danh nổi tiếng trong
vùng ra sao đến nay chưa ai khảo cứu được. Với điểm không gian cư trú
lâu đời, chắc chắn làng Phúc Ấm có ảnh hưởng quan trọng trong quan
hệ xã hội với các làng khác trong vùng. Điều này cần được khảo
cứu thêm để lưu giữ niềm tự hào của người dân làng Phúc Ấm.
Hai
là, Làng Phúc
Ấm có dân số không đông nhưng nhiều ruộng và có những cánh đồng rất
xa làng, đi lại canh tác khó khăn (những năm HTX có khi ruộng xa còn
bị bỏ hóa do thiếu nhân lực). Ruộng đất là điều kiện để nuôi sống
dân làng và nhiều gia đình trong làng giàu có từ làm ruộng. Vấn đề
chưa rõ ở đây là tại sao làng lại có nhiều ruộng và nhiều cánh
đồng lại rất xa làng đến thế? Đây là đất làng khai hoang hay mua được
của làng khác?
Ba
là, Làng Phúc
Ấm có rất nhiều di tích tâm linh đặc trưng cho làng quê truyền thống:
có 2 chùa, 1 đình, 1 nghè, một điểm thờ Văn Chỉ. Các di tích đều to
lớn, nghiêm trang cho thấy sự thuần phác tín ngưỡng, tôn trọng tục lệ
trong sự thống nhất của cộng đồng. Vấn đề đặt ra là tại sao làng
lại có thể huy động được nguồn lực để tạo dựng được các cơ sở
này? Tại sao trong một làng lại có tới 2 chùa rất gần nhau?
Bốn
là, Trong làng
có điểm thờ Văn Chỉ mặc dù làng không có ông Trạng hay ông Nghè nào.
Làng Phúc Ấm luôn có các ông đồ dạy chữ cho dân làng. Phải chăng
lòng tôn trọng việc học nên thờ Văn Chỉ như hình thức cầu mong những
người con trong làng đỗ đạt? Phải chăng mà nhờ đó làng có được
những người con trong làng có công được triều đình ban thưởng như ông
Cử Phiên, ông quan Lê Hữu Huy[15]...
Năm
là, Cũng như
phần lớn làng cổ ở Thanh - Nghệ - Tĩnh, làng Phúc Ấm (hình như)
không có cổng làng. Các tỉnh thuộc Bắc Trung bộ thường không có
nhiều cổng làng như các tỉnh miền Bắc. Phải chăng lối sống của cộng
đồng dân cư ở đây phóng khoáng, không chịu bó chặt bởi tư duy đóng
cửa ẩn náu để an phận? Sức mạnh cộng đồng ở đây phải chăng dựa vào
sự cố kết cộng đồng chứ không dựa vào lũy tre, cổng làng như miền
Bắc? Trong lịch sử dân tộc, việc khai khẩn mở đất phương nam, sự phân
tranh Trịnh - Nguyễn mấy trăm năm và các cuộc viễn chinh Nam Bắc đều
có sự đóng góp nhân lực rất lớn của những người con Thanh - Nghệ –
Tĩnh, kể cả trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Phải chăng đây
cũng là cơ sở để con người ở đây có tư duy phóng khoáng, sống quảng
giao không bị khuôn khổ hẹp hòi của lũy tre và những cổng làng?
[1] Hồi xưa nghe các cụ kể có
thời hổ từng về làng. Nếu hổ từ rừng về thì cách làng khoảng 8km,
còn men theo núi đá thì cách làng 4-5km. Điều đó có thể có thật vì
khi xưa cư dân ít, làng có nhiều chỗ rậm rạp như sả Vầu sau Nghè,
Cồn Núi...
[2] Theo Khương Bá Luận: Đập Bái
Thượng (Thanh Hóa) biểu tượng của tình hữu nghị đặc biệt Việt Lào.
Xem tại
http://vnforester.org.vn/dap-bai-thuong-thanh-hoa-bieu-tuong-cua-tinh-huu-nghi-dac-biet-viet-lao/
và
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%ADp_B%C3%A1i_Th%C6%B0%E1%BB%A3ng
(truy cập ngày 1-8-2021).
[3] Theo
http://dongson.thanhhoa.gov.vn/web/trang-chu/tong-quan/lich-su-hinh-thanh/lich-su-hinh-thanh-va-phat-trien.html
và https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n (truy cập 1-8-2021).
[4] Theo
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_Y%C3%AAn,_%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n
(truy cập 1-8-2021).
[5] Ngũ Phúc trong Kinh Thư gồm:
Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh. Còn theo phong thủy, ngũ phúc: Phúc, Lộc,
Thọ, Khang, Ninh.
[6] Theo "Lịch sử Đảng bộ và
Phong trào cách mạng xã Đồng Tiến (1930-2015)". NXB Thanh Hóa 2016,
(trang 21).
[7] Sự kiện Mậu Thôn: Tổ chức “Mặt trận giải
phóng” ở Mậu Thôn (Tân Ninh, Nông Cống) năm 1947 lợi dụng Phật giáo chống
Việt Minh. Xem http://conganthanhhoa.gov.vn/gioi-thieu/lich-su-phat-trien
(truy cập 15-7-2021).
[8] Năm 1963, khi chúng tôi đi học vỡ lòng được cô giáo cho đi
thăm quan trại nuôi ếch và lươn của hợp tác xã (HTX) ở Chùa Nam và
nghe tụi trẻ xui dại ăn quả thanh trà chín bằng cách nuốt cả hạt.
Hạt mắc ở cổ không nuốt xuống được, suýt tắc thở. Tôi vẫn còn nhớ
cảm giác nghẹt thở cho đến ngày nay.
[9] Năm 1964, tôi đi
học lớp 1 được ngồi ở lớp bên nhà tả.
[10] Từ thời Trần, quy
chế ngôi thứ, tôn ti trật tự được xếp đặt ở chốn đình trung tại các làng xã Việt
Nam. Từ đó có câu ''Lễ nghĩa tương tiên thiên hạ đại phong tục/ Tôn ti hữu tự
hương đảng tiểu triều đình'' (nghĩa là: Lễ nghĩa cùng đứng, trước là phong tục
lớn trong thiên hạ/ Tôn ti có chữ, hương đảng là triều đình nhỏ). Xem tại
https://truyenhinhnghean.vn/chuyen-de/201106/dinh-lang-xu-nghe-633334/
(truy cập 25-2-2021). Không rõ câu ở Nghè làng Phúc Ấm có phải là câu
này không?
[11] Theo Nguyễn Hữu
Thức: Giải mã tục thờ tứ vị thánh nương: Tạp chí VHNT số 404, tháng 2 – 2018.
Truy cập tại
http://m.tapchikhxh.vass.gov.vn/giai-ma-tuc-tho-tu-vi-thanh-nuong-n50089.htmlngày
15-1-2021.
[12] Nghề buôn thuyền
ở Thanh Hóa, Nghệ An xưa thường nói về buôn chuyến lớn, có thế lực,
dựa vào sông nước nên thờ thần sông nước cầu lộc. Bến Sành, Lò Gốm
xưa có thể là nơi buôn bán thuyền bè... Xem thêm "Lịch sử Đảng
bộ và Phong trào cách mạng xã Đồng Tiến (1930-2015)". NXB Thanh
Hóa, 2016 (trang 17).
[13] Xem thêm ở
http://thegioidisan.vn/vi/doi-net-ve-van-tu-van-chi-viet-nam.html (truy cập
25-2-2021).
[14] Lũ trẻ chúng
tôi mượn sân chơi đêm: bắt u, đá bóng. Tôi có kỷ niệm với điếm phe
Bắc là được nghe đài galen lần đầu tiên: đài được lấy năng lượng
bằng hơi nóng của cây đèn bão, phải thắp đèn lên một lúc mới có
tiếng nói. Ban đầu nghe rất nhỏ, sau đó nghe rõ dần.
[15] Theo " Lịch sử Đảng bộ
và Phong trào cách mạng xã Đồng Tiến (1930-2015)". NXB Thanh Hóa,
2016 (trang 33).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét