Cha tôi kể rằng khi đó mọi người đều
phải học thì mới được tham gia các hoạt động ở địa phương. Mọi người lấy nong,
nia, dần, sàng, bất kỳ công cụ sản xuất gì cũng đều viết chữ lên đó để vừa làm
vừa học. Chữ được viết lên tường, lên cổng, lên cả lưng trâu... để vừa đi cày vừa
học.
Người ta nghĩ ra nhiều cách học
sáng tạo: chẳng hạn ở cổng chợ có bàn kiểm tra, ai đọc được thì vào chợ, ai
không đọc được thì phải ở ngoài. Và vì thế cũng phát sinh nhiều chuyện cười...
- Có người nói là ở nhà tôi đọc được
hết, nhưng do chữ làng tôi khác nên ở đây không phải chữ làng tôi, tôi không đọc
được...
- Ở nhà tôi học thuộc rồi, nhưng đi
đường mải lo nghĩ chuyện cày cấy nên quên hết, cho tôi nợ để khi mua, bán xong
tôi nhớ lại và đọc giả các ông...
- Ở nhà tôi học xong lại gửi hết
cho chồng giữ nên phải đợi chồng tôi trả lại tôi mới đọc được. Sáng nay chồng
tôi được gọi đi dân công...
- Tôi viết ở quạt mo, hôm nay đi
chợ quên quạt ở nhà nên không đọc được...
... Các cách sáng tạo đó đã làm
cho mọi người học quốc ngữ rất nhanh chóng, góp phần tạo tinh thần lạc quan và
góp sức thực hiện tốt các chính sách nhà nước.
Có một chuyện tôi không bao giờ quên là cha tôi kể về ông Du, một ông vui tính trong làng. Ông Du học vần nhưng chỉ biết ghép vần en-giê-hát (ngh). Mỗi khi bắt đầu đánh vần chữ gì, ông đều en-giê-hát: ngủ là en-giê-hát u-ngu-hỏi-ngủ; học là en-giê-hát-o-ho-xê-hoc-nặng-học, Du (tên ông) là en-giê-hát-u-du; rượu là en-giê-hát-ư-rư-ơ-rơ-u-rươu-nặng-rượu...
Tất
cả đề bắt đầu bằng en-giê-hát... nên ông còn được dân làng gọi vui là ông En-Giê-Hát.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét