Chủ Nhật, tháng 12 29, 2024

“Hiệu ứng bùm”


Hồi tôi 10 tuổi (đang học lớp 3) được gia đình giao cho việc đi lấy rau lợn. Mùa đông, bèo tây (lục bình) cứng ngắc, lợn không muốn ăn nên tốn cám đành phải đi lấy rong “đuôi chó” tức là những bụi rong mọc dưới nước như đuôi con chó ở những ao sâu. Có những cây rong dài 40-50cm, lấy được rong đó về, non xanh lắm, lợn ăn mạnh, đỡ cám, bớt kêu. Ai mà nuôi lợn những năm người đói, lợn đói mới thấy thương những con vật này: chúng rét, lại đói nên réo suốt ngày, nhất là khi thấy bóng người. Người còn đói thì sao lợn no được, chúng chỉ có mỗi ngày vài nắm cám “càng” (cám giã trấu là chính), cám mịn thì đã dành cho người - nấu cháo cám ăn thay cơm.

Mà nhân đây cũng muốn nói thêm một chút về cái đói. Đói làm người ta thành bần tiện. Đói kéo theo rét thì càng dữ dội lắm. Đói-rét cộng hưởng, rét cái rét từ bên trong cộng với cái rét của không khí và gió tạo ra những cơn run rung lắc hết cỡ các cơ gân trên mặt, trên hàm, trên các khớp xương thớ thịt… Trong làng có một người hay ăn trộm vặt tên Th. Ông hàng xóm nhà tôi nói: “Ăn trộm là ai? Ăn trộm là ta, đói rét thì ta thành Th. cả thôi”. Người ta hay nói về cái đói thanh tao (hay thanh cao gì đó), nhưng có lẽ chắc gì người đó đã thực sự biết về cái đói. Đối diện với cái đói là đối diện với sự sinh tồn, đối diện với cái chết. Bản năng sống thức dậy tất cả các giác quan, tất cả những nỗ lực còn sót lại để tìm kiếm thức ăn: vì sự sống sót thì còn nghĩ đến đạo đức hay nhân phẩm khi trước mắt là cái chết?

Ấy thế mà tôi cũng thấy tiếc cho ai trên đời chưa từng biết đói là gì (!)

Đó là nói con người khi đói, trong cảnh nghèo đói mới thấy thương đồng loại và cũng mới thấy thương loài gia súc (trâu, bò, gà, vịt, chó, lợn, mèo) nuôi trong nhà. Tôi thấy sướng nhất là con vịt: khi mới ấp ra, vịt được cho ăn cơm, lớn lên được cho ăn thóc, ăn ngô và thường khi mùa gặt hái thì chúng được đưa đi chăn ngoài ruộng. Vịt có đời sống ngắn nhưng thường nuôi theo vụ nên chúng dường như không bị đói. Gà thì cơ bản cũng không đến nỗi vì nghèo cũng có cái chuồng che khi rét, nếu ít được cho ăn thì chúng cũng dễ kiếm những giun dế, côn trùng trong vườn. Trâu bò thì ăn cỏ nên chỉ cần có người đi chăn là được, mùa đông ít cỏ thì thêm chút rơm rạ hay khi đưa ra cồn bãi chúng gặm cả xương rồng hoặc nhổ cả rễ cỏ. Mèo thì ăn ít và chúng cũng tự kiếm được chuột. Khổ nhất là chó và lợn. Chó có nhiều bữa không được ăn gì, hoặc chỉ được ăn vỏ khoai, đầu sắn hay mẩu xương, liếm bát – những thứ trong bữa ăn con người không sử dụng được. Có nhiều con chó cả đời không có bữa no cho đến khi bị thịt. Lợn thì nuôi nhốt trong chuồng phụ thuộc hoàn toàn vào người. Cây chuối, bèo tây, rong rêu… băm nhỏ là thức ăn chính, nhưng cũng cần có cám chứ. Khỗ nỗi đói người thì có thóc đâu mà xay giã. Cám mịn thì người nấu cháo, còn “cám càng” thì dành cho chúng ăn. Kêu réo suốt ngày khi thấy bóng người đi qua. Tiếng réo rít của chúng não lắm, nhưng cuối buổi cũng chỉ được một rổ bèo các loại đổ vào máng và một nắm cám bốc trong tay xoa vào thức ăn làm mồi. Nó ngửi và chộp ăn chỗ nào có mùi cám rất nhanh, còn chỗ bèo thì lấy mũi ẩy ra tìm cám, vãi tung tóe ra chuồng. Sau thấy chẳng còn gì đành phải nhai cả bèo không cám, nhìn cám cảnh vô cùng.  

Lấy bèo nuôi lợn là công việc nhẹ nhất, mỗi ngày chỉ cần vài giờ là xong. Sau đó có thời gian rỗi đọc sách hoặc làm việc khác như câu tôm, đánh cù... Tôi ra bờ ao, nhìn rõ đám rong dưới nước nhưng trời rét quá, nếu lấy cái que sào dài để móc lên thì vừa lâu, lại vừa khó vì lấy được 1 mẻ rong lên thì nước đã đục ngầu không nhìn thấy nữa, các mẻ tiếp chỉ vu vơ có khi chẳng được mấy, mất công lắm. Cách nhanh nhất là cởi quần áo rồi lội xuống, nhổ ào ào một lúc là đủ cho “con réo” ở nhà ăn 1-2 ngày.

Tôi rón rén ngâm dần từng bộ phận xuống nước, ban đầu 2 chân, rồi lên đến đầu gối,… Trời thì gió rét, quần áo thì đã cởi bỏ hết, hoặc dò dẫm cho quen lạnh, hoặc “bùm” một cái, ào ào ra chỗ có rong để mò. Cái cảm giác tay phải quơ ngang đám rong, giũ bùn rồi chuyển rong sang tay trái để vơ tiếp, người ngập trong nước giá lạnh đến tận cổ, mồm mím chặt mà vẫn cầm cập 2 hàm răng đánh vào nhau. Chừng 15 phút thì đã được một đống ôm vào bờ, vơ vội quần áo mặc vào rồi gánh 2 rổ rong về bờ ao nhà rửa lại. Cái lạnh đã bớt đi vì sự vận động mạnh và vội vàng, nhưng sau thì cái rét từ bên trong mới sầm sập tạo ra cơn run rẩy, có khi phải vào ngay bếp đốt 1 nắm rơm hơ lửa cho đỡ cóng.

Sau nhiều lần thử, tôi thấy cách “bùm” là tốt nhất. Cởi thật nhanh quần áo, “bùm” ra thật nhanh chỗ rong, vơ lấy vơ để lôi vào bờ… “Bùm” thì nói dễ nhưng làm thì kinh hãi lắm: gan dạ mới dám, lạnh cứng người, tê đến các đốt xương, cóng tay cóng chân. Nhưng thà “bùm” cho xong vì đằng nào mà chả cóng?

Sau này tôi tự gọi đó là “hiệu ứng bùm” và mỗi khi có tình huống phải làm thì cứ “bùm” mà áp dụng thôi. Chống cái sợ nhanh nhất là “bùm”. Chẳng hạn khi học đại học, lớp chọn người vào thi vấn đáp trước, tôi vần A, thế là hay được gọi vào “bùm”. Khi phải phát biểu trước đám đông, thế là tôi xung phong “bùm”. Khi phải đi công tác đến chỗ vất vả, tôi “bùm”…

“Bùm” có cái hay là nhanh hết sợ, nhưng đôi khi thiệt thòi lắm: thi vấn đáp lúc đầu không bao giờ được điểm cao nhất, các thầy giáo hỏi kĩ những người mới, các vị thi sau sướng nhất (hoặc cũng khổ nhất) vì về sau các thầy chán rồi nên hỏi nhanh, nhưng họ lại cũng khổ nhất thì phải chờ đợi nỗi sợ đến nhiều nhất. Khi phát biểu trước thì không được tổng hợp các ý kiến của người khác (hay không dựa theo được) nên chỉ nói được những gì mình có. Khi xung phong đi công việc có thể là những việc khó làm nhất... Tôi “bùm” một cái, xong hết sợ để còn nhìn thiên hạ “chết và chờ chết”, cũng sướng lắm thay!

 

Cục Kinh tế QK9: Vài biểu hiện quan hệ Nam – Bắc

Ở QK9 chuyện phân biệt Nam – Bắc nghe nói khá nhiều. Khi chúng tôi ở Cục Kinh tế, chuyện đó không quan trọng gì mấy vì chúng tôi cũng chỉ là thiểu số, chưa có công việc gì để tạo ra sự lo lắng phân biệt. Sau này nhìn lại cũng thấy có một số biểu hiện nho nhỏ.

1/ Chuyện các Thủ trưởng lo không được sử dụng

Nhìn đội ngũ các Thủ trưởng lãnh đạo Cục và các Phòng ban, chúng tôi thấy duy chỉ có Thiếu tá Nguyễn Hữu Chước quê Quảng Bình là người Bắc. Sau này thì có thêm ông Đại tá Thanh Vân ở Quân khu 4 vào làm Cục trưởng, nhưng ông ta chỉ vào làm “thủ tục” chờ hưu trí, rồi sau đi đâu đó không rõ, nhưng rõ ràng ông không có ảnh hưởng gì đáng kể với Cục Kinh tế.

Thứ Tư, tháng 12 25, 2024

Nghĩ về một trường phái khoa học

 

Lúc còn đi làm ở trường đại học, tôi đã từng có ước mơ Bộ môn có được một trường phái khoa học với mô hình GS đứng đầu, dưới có các PGS, dưới nữa có các TS, rồi các NCS TS, NCS ThS và các nhóm NCKH của sinh viên theo định hướng nghiên cứu của Bộ môn. Đại loại là mô hình một Bộ môn của một trường ĐH trên lớn thế giới có sự phát triển của các nghiên cứu đầu ngành. May mà mình chẳng làm nên trò trống gì, rồi đổ hết cho mọi thứ đều không có “điều kiện”…

Nghe ra có lí vì giấc mơ đó là một trường phái nghiên cứu khoa học có người đứng đầu (đầu đàn) luôn xưng danh là “sư phụ” và có các thế hệ “đệ tử” nối gót đồng tình phát triển trường phái lâu dài, thúc đẩy sự cố kết cùng nỗ lực nghiên cứu một định hướng được người đầu đàn gây dựng. Người đứng đầu xứng đáng chức danh GS để tạo ra một trường phái nghiên cứu độc lập, cạnh tranh và thách thức với các nhóm nghiên cứu khác đương thời và bất đương thời. Sự khác biệt đó tạo nên các thương hiệu trong khoa học, tạo nên các giải thưởng gắn với tên tuổi các trường ĐH và quốc gia.

Sau này tôi nghĩ lại những mô hình này có lẽ không cần thiết lắm và thậm chí không nên có. Thứ nhất vì mô hình “sư phụ” và “đệ tử” tạo ra sự lệ thuộc với nhau khi các thế hệ gia nhập sau “bị hiến thân” cho sự nghiệp của người đi trước. Các tầng lớp “đệ tử” bị lệ thuộc không còn dám sáng tạo hơn người đi trước, cứ theo lối người đi trước để làm đông đảo đội ngũ, để phát triển các râu ria như kiểu “vẽ thêm râu cho mèo”.

Thứ hai, liên hệ đến sự phát triển và tồn tại trong tự nhiên cho thấy những mô hình “đầu đàn” đều có vấn đề nghiêm trọng. Con đầu đàn chịu trách nhiệm bảo vệ đàn: nòi giống, lãnh thổ, nguồn thức ăn… trong sự cạnh tranh khốc liệt với các nhóm khác cùng loài và khác loài. Nghiêm trọng hơn là các thế hệ kế sau khi đang độ khỏe nhất, nhiều năng lượng nhất thì lại không có được sức giải phóng mà luôn bị kìm hãm bởi luật hà khắc nhất của nhóm: không thể kết đôi với con khác ở nhóm khác (vì tìm đôi ở nhóm khác thì bị nhóm khác đánh chặn bảo vệ), càng không thể kết đôi với anh chị em cùng nhóm, vì con đầu đàn giữ “đặc quyền” giao phối với tất cả các thế hệ giống cái trong nhóm. Vợ con đầu đàn (buồn thay và ghê tởm thay) lại chính là con, là cháu, là chắt… của chính nó. Các thế hệ con đực sau chỉ chờ cơ hội khi con đầu đàn suy yếu thì tìm cách kết liễu nó để lên thay và rồi lại độc quyền chiếm giữ lãnh thổ và “tài sản” của nhóm mình (khi đó vợ của con đầu đàn lại thành vợ của đứa con/đứa cháu chiếm ngôi). Có 2 nguy cơ dẫn đến tất yếu diệt vong: a/ sự cận huyết trong tạo giống di truyền; b/ Sự co cụm tranh giành cuộc sống với tài nguyên ngày càng khan hiếm. Ngày nay, nhìn trong tự nhiên các mô hình đầu đàn nổi tiếng như sư tử, voọc, gấu, báo… đều hầu hết chỉ còn trong các khu bảo tồn để cố sinh sống thêm một số thời gian nữa nhờ bàn tay cứu hộ của con người.

Một chuyện khác có tính xã hội hơn tự nhiên: khi một tộc người tìm cách sống trong mô hình co cụm không giao lưu xã hội cũng tất yếu dẫn đến chuyện đáng lo ngại: nguồn gen thoái hóa khi di truyền các thế hệ trên nền tảng cận huyết. Nhìn đám trẻ tộc H’mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta đều hao hao như nhau với khuôn mặt đờ đẫn, bàng bạc, trảng trẹt, thiếu hồn sống linh hoạt mà thấy buồn thay cho tương lai của chúng. Cả một làng hôn phối cùng tộc, cả một tộc hôn phối cùng loài (gen) làm sao có được sự phát triển ưu thế lai trong tiến hóa khi các gen trội tất nhiên mạnh mẽ di truyền cho các thế hệ sau. Đáng suy ngẫm lắm chứ!

Rõ ràng nếu có chăng sự tồn tại của một trường phái thì nên nhớ rằng tính lâu dài của trường phái là vô nghĩa vì sự cạnh tranh trong khoa học cũng như trong tự nhiên phải đi đến sự phá vỡ các trường phái khi chúng không còn tiên phong khoa học.

 

Xác định được bài hát của cụ Tôn

 

Dạo này ông Tỏn hàng ngày 3 lần lên “bà Tâng - Tầng 3” đưa cụ Tôn xuống ăn cơm ở tầng 1. Cụ (trộm vía) dạo này khỏe, da mặt trắng hồng, ngủ ngày 4 lần (tối-sáng-trưa-chiều), ăn 4 lần (sáng-trưa-chiều- tối) nên cả nhà cũng khỏe theo, đưa cái gì lên cũng ăn hết (ngoài 3 bữa chính ở bàn ăn tầng 1), uống mỗi ngày 1,5 lít nước… Cụ theo dõi radio hàng ngày, lo nhất là tình hình bão mấy hôm nay đang sắp vào miền Nam, lo sốt ruột không ngủ được. Đúng là cụ lo cho cả nước, còn hơn cả lãnh đạo!!!

Cụ bảo: “Mỗi cái tai trời chưa cho điếc hẳn để sống lâu, mũi thì ngồi ở tầng 3 mà hàng xóm (cách 2 nhà) nấu gì cũng biết”. Mắt thì khỏi phải nói, 91 tuổi mà vẫn nhìn thấu qua tận hồ bơi trước nhà. Nói chuyện cụ đoán qua nhìn miệng “hơi bị giỏi”. “Cơ bản” đúng - khoảng 30%. Món sở trường có thương hiệu vẫn là bóc bưởi (bóc đẹp, rất nhanh), tung hạt lạc lên miệng (nay hơi kém hơn tí vì có vẻ không thích ăn lạc rang). Hôm nào bà Tủng mua bánh lá (bánh tẻ) thì nhoáy cái đã xơi xong 1 cái. Nếu mua bánh đúc lạc về thì cụ thích nhất, bánh đúc lạc chấm tương ăn cứ như hồi còn trẻ cụ được ăn ở quê ấy. Ăn kiểu sướng cả khuôn mặt: mắt sáng lên ánh vui, mồm nhai cứ cuốn vào, đầu gật gật nghiêng nghiêng khoái chí… (khó tả quá, hôhô).

Ông Tỏn thấy dạo này khi vào thang máy cụ Tôn thích soi gương rồi lại hát ư ử. Khi đến tầng, thang máy mở mà cụ cứ như quên, phải nhắc mới chịu ra, lại luôn miệng: “Nhanh dầ, nhanh dứa”. Mãi gần 1 tháng ông Tỏn mới xác định được âm điệu bài hát của cụ Tôn như sau:

    “Ứ - ự - ừ - ư - ử

    Ử - ừ - ư - ứ - ư

    Ư - ư - ừ - ư - ứ

    Ư - ư - ư - ứ - ừ”

Thế là ông Tỏn vận dụng phương pháp kiểm chứng để xem cụ hát bài gì. Trong lúc chờ cơm ông Tỏn hỏi: “Hồi xưa cụ cưới tháng nào?” Cụ nhìn mồm ông Tỏn rồi cười đáp: “Năm 1935 Ất Tỵ”. Bà Tủng cười: “Sao mới đẻ mà lại cưới được? Đẻ năm 1935 Ất Tỵ, còn ông ấy hỏi cưới khi nào?” Cụ nói: “Ứ trời, thằng đó cưới 1956”. Thì ra lúc đó cũng 21 tuổi rồi. Ông Tỏn lại hỏi: “Thế cưới tháng mấy?”. Cụ đáp: “Cưới tháng 1, chết cũng tháng 1”. Bà Tủng bảo tháng 1 là đọc theo kiểu các cụ: Một - Chạp - Giêng - Hai… Như vậy là cụ cưới tháng 11 âm lịch năm 1956, cách Tết gần 2 tháng.

Vậy là ông Tỏn đoán được có thể bài hát của cụ gắn với hồi còn yêu nhau và chuẩn bị cưới, chắc là có liên quan loài hoa nào đó ở quê. Cứ thế ông Tỏn hỏi về hoa ở quê, cụ Tôn xác định ngay hoa cải mùa đông đẹp. Hỏi hoa trồng ở đâu, Cụ nói: “Dọc theo bờ sông nhiều ta trồng cải nhiều hoa vàng lắm”. Mắt cụ sáng lên như cái hồi 2 người yêu nhau thường ra bến sông thấy hoa cải vàng vậy. Lần theo cách đó, ông Tỏn xác định bằng “phương pháp khoa học có kiểm chứng” hẳn hoi ca từ bài hát như sau:

Ứ - ự - ừ - ư - ử           Có một mùa hoa cải

Ử - ừ - ư - ứ - ư           Nở vàng bên bến sông

Ư - ư - ừ - ư - ứ           Em đang thì con gái

Ư - ư - ư - ứ - ừ           Anh xui em lấy chồng

Thì ra cụ đang hát tình ca từ thời yêu cụ ông (hay cụ nào đó) từ gần 70 năm trước.

 

Viết nhân sắp giỗ cụ Thiết (29 tháng 11) – chồng cụ Tôn

Thứ Bảy, tháng 12 21, 2024

Cục Kinh tế QK9: Cuộc sống văn hóa tinh thần


Thân tặng Trần Hữu Giang,

(viết xong ngày 21-12-2024 – Nhân dịp 80 năm ngày Thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam)


Đó là những năm tháng tôi luôn thấy rất hài lòng sung sướng về văn hóa, tinh thần. Tôi tóm tắt sau đây các hoạt động chính trong gần 2 năm ở Cục Kinh tế.

1/ Đọc sách

Khi phát hiện ra có 2 kho sách lớn là Thư viện QK9 và Thư viện Hậu Giang, chúng tôi đã đến tìm hiểu thủ tục và làm thẻ mượn sách. Quá dễ để mượn sách vì khi đó ít người đọc và có lẽ người dân phía Nam lúc này chưa quen với dòng sách đưa từ Bắc vào. Hồi ở trường đại học chúng tôi không dễ được đọc sách văn học, chỉ là chuyền tay nhau đọc những gì “mượn nóng” ở bạn bè. Thư viện trường chỉ chủ yếu là sách kĩ thuật, hầu như không có sách văn học. Ở Thư viện Hậu Giang và Thư viện QK9 có rất nhiều sách văn học, nhất là các dòng sách dịch từ các tác giả văn học cổ điển Pháp, Nga, Anh,… nên chúng tôi có dịp làm quen với các thể loại này. Chúng tôi có “Thẻ bạn đọc” tiếp cận với 2 kho sách lớn – đọc cả đời không hết như một số bạn nói vui.

Tôi hàng tuần đi mượn trả khi mỗi cuốn đọc xong. Lúc đầu chưa biết cách đọc, tìm trong hộp thẻ thấy hay thì mượn. Trong sổ tay ghi chép của tôi, hết năm 1981 tôi đã đọc được hơn 60 tác phẩm văn học, đến 1984 tôi có lẽ đã đọc được gần 200 cuốn tại các thư viện này. Các tác giả trong nước thì dễ định hình vì dù sao cũng đã biết ít nhiều. Nhưng tác tác phẩm nước ngoài thì có khó khăn trong lựa chọn. Phải thời gian sau tôi mới biết lựa chọn theo các tác giả lớn, theo các thể loại sách và theo dòng văn học các nước.

Về văn học Nga, các lựa chọn đầu tiên là Lev Nikolayevich Tolstoy với các tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình, Anna Karenina, Sống lại (sau này dịch là Phục sinh)… Aleksey Nikolayevich Tolstoy là Con đường đau khổ. Fyodor Dostoevsky là Tội ác và trừng phạt, Anh em nhà Karamazov. Rồi hầu hết các sách dịch của Maksim Gorky, Konstantin Georgiyevich Paustovsky, Ivan Sergeyevich Turgenev, Chyngyz Torekulovich Aitmatov, Mikhail Aleksandrovich Sholokhov, Boris Polevoy, Rasul Gamzatovich Gamzatov, Ilya G. Ehrenburg (chỉ đọc Pari sụp đổ của Ilya G. Ehrenburg). Thơ thì đọc Aleksandr Sergeyevich Pushkin, Mikhail Yuryevich Lermontov…

Văn học Pháp có Victo Hugo (Những người khốn khổ, Nhà thờ Đức Bà Pari,…), Honoré de Balzac (Miếng da lừa, Tấn trò đời,…),  kịch của Molière,…

Văn học Anh có Romain Rolland (bộ tiểu thuyết 10 tập “Jean-Christophe”,  Charles Dickens “David Copperfield”, William Shakespeare (kịch)…

Văn học Ý chỉ đọc Ruồi trâu của Ethel Lilian Voynich. Văn học Tây Ban Nha chỉ đọc “Đôn Ki-hô-tê nhà quý tộc tài ba xứ Mantra” của Miguel de Cervantes Saavedra.

Thật là cả một kho vô tận, đọc ngấu đọc nghiến, đọc lấy được… để thỏa cơn nghiện sách từ hồi còn học phổ thông.

Từ khi quen các bạn gái ở ĐH Cần Thơ thì bắt đầu thêm thể loại sách thơ trong nước và thế giới. Lại còn mua cả Lá cỏ của Walt Whitman (nhà thơ Mỹ), hay loại thơ bậc thang của Vladimir Vladimirovich Mayakovsky (nhà thơ Nga) để tặng nhân sinh nhật các bạn gái, nay nghĩ lại buồn cười ghê.

2/ Thể thao

Chuyện thể thao thì cũng rất thú vị: sau khu nhà làm việc có 1 sân bóng chuyền và 2 bàn bóng bàn. Thế là có dịp thử các món nay. Về bóng bàn thì không ai dạy cứ vào để gõ rồi quen dần. Hồi đi thực tập ở Hải Hậu, tôi và Giang cũng đã qua Nhà văn hóa huyện đánh bóng bàn vài lần, nhưng vì chưa từng cầm vợt nên chỉ chờ khi các cao thủ nghỉ mới vào làm vài set. Có lần Giang đánh với 1 cậu bé, nó nói nó đang học lớp 2, và lớp 2 thì học rất khó. Giang bảo với nó: đúng thế, học lớp 2 khó lắm nên hồi tao học, tao lên học luôn lớp 3 cho dễ. Mày về bảo mẹ xin cho lên lớp 3 hoặc lớp 4 luôn đi. Nó cười tiu cho mấy quả không đỡ được. Nay doanh trại có bàn hẳn hoi, tha hồ tập. Chỉ tiếc là cũng khá đông thằng muốn thử sức nên phải làm trò “thắng ở - thua ra”. Cái bàn bóng để cạnh phòng làm việc của các chú Ban Chính sách Quân khu. Có chú người Nghệ An phàn nàn rằng chúng tôi làm ồn ào trong giờ làm việc, nhưng sau thấy chúng tôi toàn người Bắc và thế là Bính quen ngay với các chú. Sau đó thì chơi cả trong và ngoài giờ không ai nói gì. Chơi bóng bàn thì Bính có chiêu đứng sát bàn tạo ra “thương hiệu úp bóng và dúi bóng” rất nhanh, khó đỡ của nhiều đối thủ.

Cái sân bóng chuyền thì phải sau 4 giờ chiều mới ra đánh được vì nắng quá. Các anh phía Nam chơi giỏi nhất là anh Giản, có lẽ anh trước đã ở trong đội bóng nào đó nên có lúc mình anh chấp cả 3 người: bên kia là Ngọc, Hà và Minh, có khi cả Tâm cũng vào mà anh vẫn thắng. Ban đầu quy định “3 bát” thì mỗi khi anh Giản có bóng và tự đánh “3 bát” thì 100% thắng nên anh Ngọc đề nghị chỉ cho anh Giản “1 bát” qua luôn thì dai dẳng được dăm bảy lần đổi bóng. Khi anh Giản phát thì 80% là ăn nên anh cũng nương tay chút để kéo dài cuộc chơi. Từ khi có chúng tôi ra xem, anh Ngọc rủ chơi thì Giang chơi hay nhất. Tôi và Bính (sau này cả Chuyên) cũng vào chơi nhưng loẹt quẹt thôi. Mặc dù trước học bóng chuyền đã đạt điểm khá vì có thể giữ bóng và chuyền cho nhau cả 20 lần chưa rớt nên có biết tí kĩ thuật chuyền. Ban đầu các anh khen biết đánh cơ bản, thế là được xếp vào sân cho đủ quân số. Khi anh Thoải về, anh Giản huấn luyện để Giang và Thoải được tấn công trên lưới nhiều hơn. Từ đấy chúng tôi các buổi chiều ra sân là gần đủ quân số từ 10-16 người. Tha hồ cho anh Giản phân công bố trí đội hình để cân bằng quân số. Hôm nào thiếu thì bên anh Giản giảm bớt, có khi chỉ còn 2-3 người còn bên kia đủ mà vẫn thua. Vui đáo để. Cuối năm 1981, chúng tôi đã có đội bóng riêng của Cục để đi dự đấu ở Cục Hậu cần. Tôi lần đầu tiên được vào sân thi đấu, lúc bóng bên kia đánh sang chắc chắn đã ra ngoài sân nhưng tôi lại chạy ra bắt trước khi rơi, bị mất điểm lại bị chê cười đỏ mặt không còn tự tin đánh nữa. Haha, thế là tôi cũng đã từng là thành viên của đội bóng chuyền Cục Kinh tế đánh với các đội bạn trong Quân khu.

Có những chi tiết tôi rất nhớ: Giang thì cao khỏe, có năng khiếu bóng chuyền, khi những năm cuối ở trường ĐH tôi thấy Giang có lúc lên chơi sân nhà tập thể A1 khu cán bộ với các thầy giáo. Khi vào quân đội, Giang được anh Giản thấy khả năng cơ bản nên bồi dưỡng kĩ thuật để Giang nhảy cao, đập mạnh cắm vạch 3 mét. Còn anh Thoải thì cũng đã đánh rất cơ bản nhưng anh to và thấp nên món đập hay bị rúc lưới, nhưng món chắn bóng khá hay. Có lần Cục mời đội bạn đến chơi, họ có vài cây đập tốt nên đội Cục Kinh tế yếu thế, anh Giản nói nhỏ với anh Thoải gì đó, thế là anh ấy chắn bóng thành công lắm, còn bên kia có vẻ không dám đập nữa. Chiều về anh Thoải nói: “Có gì đâu, nó nhảy lên đập là mình nhảy sớm hơn chút đập thật mạnh vào tay nó, nó khiếp không dám nêu bóng gần lưới nữa. Mấy quả mình đập trúng tay nó, tuy mình bị lỗi dính lưới nhưng tay nó đau nên đánh sao nổi. Ta nhất định thắng”. Quả là lắm mưu, không biết có phải là cú nói nhỏ của anh Giản với anh Thoải không, nhưng từ đó anh Thoải cơ bản chỉ luyện chắn và đập sát lưới – bị lỗi chạm lưới và làm bị thương tay đối thủ !!!

Một chuyện cũng nên kể là hồi đó có những dịp đấu lớn ở QK bộ, trong T80. Thủ trưởng cho chúng tôi đi xem. Xe thì ít nên anh Vui chở đi vài chuyến mới hết. Lần ấy đội bóng chuyền QK9 thắng, lúc về mọi người leo kín xe Jeep của anh Vui, xe tốc hết bạt lên để mọi người bám vào, vừa đi vừa la hét vui mừng chiến thắng. Về đến Cục đếm ra có tới 17 anh em bám kín xe Jeep 4 chỗ. Vui mà quên cả quy định an toàn.

3/ Tổ chức kỉ niệm 22-12

Năm 1982, Cục Kinh tế tổ chức liên hoan 22-12. Bữa liên hoan rất thịnh soạn, chúng tôi được dự “bữa cỗ” lớn nhất trong đời: có 6 con tôm to bóc vỏ màu đỏ móc trong quả dừa trắng, cua biển thì gỡ lấy thịt ra trộn với gì gì đủ thứ nữa rồi cho vào cái mai cua chiên lên, rồi thì đủ món lạ và ngon chưa từng được nếm. Hồi này chị Thượng úy Thủy về làm quân nhu nên cuộc sống cải thiện dữ lắm, ăn uống cứ gọi là thoải mái, cơm nhà bếp mà thịt kho tàu ăn không hết. Bữa liên hoan hôm đó Cục đón nhiều khách, không biết họ là ai nhưng thấy các thủ trưởng vui đón chào tưng bừng, còn chúng tôi chỉ biết ngắm nhìn khách và vào mâm xơi các món lạ kiểu phương Nam thật hết sức thú vị, khó quên.

Có 2 mục tôi vẫn còn nhớ: Đoàn Thanh niên Cục làm báo tường và biểu diễn văn nghệ.

Trong chúng tôi chưa ai đã từng làm báo tường khi ở Đại học. Vào đây được các anh hướng dẫn, tôi được vào ban biên tập và chép bài. Mỗi Phòng có một tờ báo tường để dự thi trong Cục. Anh Tâm động viên phân công bài viết, tôi và anh Ngọc trang trí, sau có thêm anh Luận. Khi thu bài để chép lên tờ A0 mới biết thì ra đều như nhau cả, mọi thứ đều làng nhàng kiểu viết cho xong, cho có bài thôi. Tôi làm 1 bài thơ, còn anh Tâm viết xã luận. Bính viết bài truyền thống quân đội. Tập hợp mọi người cũng kín được 1 trang A0 chia ra các mục. Bài thơ của tôi ngớ ngẩn thôi nhưng được Vũ Minh Châu phòng Nông nghiệp khen hay nên cũng thấy sướng. Lúc này chúng tôi đang quen mấy nữ sinh ĐH Cần Thơ nên tâm hồn phơi phới tinh thần anh – em, lính – nữ sinh. Tôi vẫn còn lưu được bài thơ của tôi “Anh kể với em về đời lính gian nan..." đăng báo tường lần ấy trong sổ tay. Sổ tay ghi rõ Cần Thơ 8/82, như vậy đã sáng tác trước khi làm báo tường, hay lấy 1 bài đã sáng tác để đăng lên báo tường (xem hình bên dưới). Có mấy câu mà Châu nói là rất thích:

“… Biết vá may và biết nấu cơm

Biết trăm chuyện điều bình thường giản dị

Khi qua sông cũng biết ca điệu lí

Đêm rừng khuya biết làm thơ cho em”.


Bài của Bính viết về kỉ niệm chiến thắng Nà Ngần - Phay Khắt[1] đầu tiên của quân đội ta. Hồi đó không có Google mà Bính nhớ được các trận đó ta có mấy chiến sĩ, đánh được bao nhiêu quân. Khi chép bài vào giấy A0, tôi biết được đây là 2 chiến thắng đầu tiên của Quân đội ta. Chuyên có bài thơ kiểu sưu tầm, anh Thoải, anh Ngọc, anh Luận cũng có bài. Tôi không nhớ Giang và anh Trung có bài gì không? Báo tường của Phòng Kế hoạch được giải nhì. Anh Tâm trong Ban Giám khảo nói Báo tường Phòng Kế hoạch trình bày đẹp và có vài bài có chất lượng. Anh còn nói bài của Ảnh lúc đầu mọi người cho là chép ở đâu đó, nhưng Vũ Minh Châu khẳng định đây là Ảnh tự làm nên được điểm sáng tác hay… Hồi đó Phòng Lao động-Tiền lương có Bình (Hũ) viết chuyện ngắn trên báo tường nhưng dài quá không ai đọc. Bình sau này còn sáng tác Quốc ca nhân cuộc vận động sáng tác của Nhà nước. Bình có giấy chứng nhận của Hội đồng là đã nhận được sáng tác của Bình nên phấn khởi lắm, đi đâu cũng khoe tí.

Còn tối liên hoan văn nghệ thì chúng tôi không được phân công chuẩn bị gì. Hôm đó tôi đi đón các bạn nữ ĐH Cần Thơ đến xem, khi về đến đơn vị thì đã biểu diễn. Sân khấu ngoài trời kê trên mấy cái bàn trước Phòng họp của Cục, còn người xem đứng quanh trong sân. Có 1 tiết mục mọi người rất chú ý: Bài liên khúc 3 miền (hát liền 3 bài, nhưng cơ bản là giọng 3 miền) do một nữ “ca sĩ mượn”: đó là vợ anh Thoải vào thăm chồng đăng kí lên sân khấu hát. A ha, nhóm Bắc đã góp được một tiết mục rất độc đáo, anh Thoải cũng lên hát với vợ. Vợ chồng anh Thoải có 1 kỉ niệm đáng nhớ.

4/ Cải thiện đời sống tinh thần

Lúc này, chúng tôi có đời sống vật chất khá đầy đủ về ăn uống, công việc thì không có gì đáng kể, mới có vài chuyến đi công tác về các tỉnh. Trong khu ở, chúng tôi trồng được nhiều chậu hoa mười giờ nhiều màu, thỉnh thoảng được đón khách vào chơi. Các cuối tuần đôi khi còn mời được cô giáo Hòa dạy tiếng Nga ở ĐH Cần Thơ đến ăn tối, nhất là khi cô rủ mấy bạn nữ sinh đến nên rất vui. Cô Hòa đã dạy tiếng Nga hồi chúng tôi học ĐH Nông nghiệp I, sau này cô chuyển vào ĐH Cần Thơ nên chúng tôi coi như người quen cũ, nhiều lần đến nhà cô chơi. Cả cô Hòa và thầy Liễn (chồng cô Hòa) đều quý chúng tôi, coi như người thân trong những năm đầu chúng tôi ở Cần Thơ.

Chuyện quen với các nữ sinh ĐH Cần Thơ cũng là niềm vui đáng quý. Các buổi cuối tuần vào kí túc xá ĐH Cần Thơ hoặc đôi khi đón các em đến doanh trại hay đi chơi cùng nhau cũng rất háo hức (tôi sẽ viết riêng thành một bài khi có dịp).

Tết năm 1982 cũng là một trải nghiệm hay. Gần Tết, chúng tôi lên nhà Thủ trưởng Hai Chước gói bánh chưng kiểu Bắc và ăn tất niên với vợ chồng ông. Tôi đã làm bánh chưng gói khuôn lá dừa như quê tôi vẫn làm, bánh rất vuông vắn, đẹp được mọi người phía Nam trong khu ở của ông Hai Chước khen gói giỏi.

Chúng tôi tự tổ chức Tết trong doanh trại, tự trang trí phòng, làm chỗ trang trí bàn thờ, thắp hương cho đỡ nhớ nhà. Chúng tôi mua giấy màu, vẽ và cắt dán nhiều hình ảnh lên cửa, lên tường ở các giường ngủ cho vui mắt. Nơi ngủ của nhóm anh em của Phòng Nông nghiệp rất rộng nên Thiện và Châu còn trang trí cả Quốc kì. Đúng Giao thừa mọi người uống rượu chúc nhau. Khi nhóm anh em bên Phòng Tài vụ qua chúc Tết thấy có Quốc kì tra cán hẳn hoi buộc vào một buồng chuối to trên tường kèm theo đủ thứ hoa quả thì anh Huệ yêu cầu tập trung Chào cờ, hát Quốc ca. Thật lạ, mọi người rượu đã ngà ngà say, đứng bên nhau hát Quốc ca đêm Giao thừa trong doanh trại – đời tôi chỉ thấy một lần. Sáng Mồng 1 Tết cả một đoàn bộ đội quân phục tề chỉnh rộn ràng kéo nhau đi chúc Tết những người quen trong thành phố cho vơi bớt nỗi xa quê nhớ nhà.

Đó thật sự là những ngày vui sướng của đời lính thời bình. Tôi viết xong được bài này cũng coi như đã kể lại được một phần đời trai chúng tôi một thuở tràn trề năng lượng sống, vô tư không nhiều vướng bận riêng tư. Riêng tôi, tôi thấy rất đáng quý trọng vì những năm tháng này có nhiều kỉ niệm bên nhau – không quá sâu nặng, không có chia li hay sự hi sinh xương máu – nhưng luôn man mác một tình cảm trong sáng, nhẹ nhàng thư thái ung dung đầy tính tự nhiên phóng khoáng. Cứ như là một vốn sống đem theo làm chỗ dựa tinh thần trong cuộc đời nhiều năm công việc sau này.

 


 



[1] Trận Phai Khắt và Nà Ngần ngày 25 và 26 tháng 12 năm 1944 là 2 trận đánh đầu tiên của đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiêu diệt 2 đồn nhỏ là đồn Phai Khắt và đồn Nà Ngần, do đích thân Võ Nguyên Giáp chỉ huy.

https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn_Phai_Kh%E1%BA%AFt_v%C3%A0_N%C3%A0_Ng%E1%BA%A7n

 

Thứ Tư, tháng 12 04, 2024

Cục Kinh tế QK9: Quân đội làm kinh tế

 

Lên phòng ngồi không có việc gì nhưng để biết những thông tin anh Tâm báo cáo đầu tuần, tôi hỏi mượn anh các tài liệu. Anh đưa cho tôi 1 cuốn sổ rộng được kẻ như một bảng thống kê. Hàng ngang là chi tiết tên nông trường, nông trại toàn QK được phân theo các tỉnh. Các cột dọc là diện tích, quân số, số đã khai hoang, số diện tích đã gieo sạ, dụng cụ được phân, số tiền đã cấp… Tôi thấy anh theo dõi rất chi tiết và khoa học nên nhanh chóng tổng hợp được tình hình khi báo cáo hàng tuần. Anh nói các số liệu này được cập nhật theo báo cáo từ các tỉnh đội gửi lên hàng tháng, tuy được gửi theo quy định nhưng mỗi nơi báo cáo một kiểu thành ra các con số này không đầy đủ. Đôi khi còn phải điện xuống yêu cầu họ mới báo cáo. Một số đơn vị chỉ gửi báo cáo ban đầu rồi thôi, chắc điều kiện của họ cũng khó khăn. Anh Tâm nói anh cũng chưa được đi thực tế nên không rõ tình hình cơ sở thế nào. Tôi mượn anh báo cáo rồi ghi chép vào sổ tay công việc. Vài hình dưới cho thấy số liệu tôi ghi chép được ngày 29-4-1981 tại Cục Kinh tế QK9.






(Trích một vài trang ghi chép ngày 29-4-1981, tức sau khi đi làm hơn 1 tuần)

Tổng hợp toàn QK có 18 nông trường (quân khu quản lý) với 20.960ha canh tác, quân số 2.577 người. Số nông trại (tỉnh đội quản lý) là 53, diện tích canh tác 1981 là 8.170ha. Trồng lúa là chính, ngoài ra còn các loại cây như khóm, mía, dừa,... Ngoài các nông trường, nông trại ra còn có các đơn vị XDCB gồm 8 trung đoàn với quân số gần 4.000 người. Về đầu tư: 176 máy cày (28: DT75 của Liên Xô, 139 máy Áo), máy Cole 10 (dùng vận chuyển): 40 cái; Vốn: 3 triệu tiền mặt.

Tôi cũng đọc được các văn bản về Quyết định 215/CP của HĐCP về việc trao lại cho Bộ Quốc phòng các đơn vị dân sự làm kinh tế trong đó ghi rõ phân công quản lý theo NQ 27/NQ-TW ngày 26-6-1980 của Bộ Chính trị. Công văn số 21/TL về nhiệm vụ làm kinh tế ở đồng bằng sống Cửu Long 1981-1985 và nhiệm vụ năm 1981 của QK9. Chỉ thị số 18/QP về giao nhiệm vụ bổ sung xây dựng kinh tế năm 1982 đối với QK9 ngày 18-2-1981 với việc QK9 quản lý 18 nông trường quân đội và 4 nông trường Giồng Găng, Tam Phú, Tam Hiệp, Cổ Đông. Nhiệm vụ 1981 của QK9: canh tác 4 vạn ha, sản lượng 4 vạn tấn, giao nộp 3,6 vạn tấn.

Nay đọc lại những con số này mới thấy tình hình toàn QK9 làm kinh tế lúc ấy. Tính ra diện tích chưa đầy 3 vạn ha nhưng quân số tính cả đơn vị XDCB lên đến trên 4.500 người. Đó là chưa kể lực lượng tại các tỉnh đội.

Sau này chúng tôi có dịp đi công tác nhiều đơn vị cơ sở, chúng tôi mới hiểu tâm sự của anh Tâm về chuyện báo cáo. Có khi cơ sở không có giấy bút ghi chép gì, không có cái bàn để làm việc, cái hòm đựng đồ, lúc nước lũ về lút cả 2-3 m. Đó là chưa kể làm sao để báo cáo đúng được khi cánh đồng không có giới hạn gì rõ ràng: mùa nước thì mênh mông như biển, mùa khô thì cỏ tràn lan đến tận chân trời (tôi sẽ kể thêm trong các chuyến đi công tác).

Rồi điều kiện ăn ở của bộ đội: chỉ có cái lán che mưa nắng và mấy cái xoong chảo, gạo thì được cấp, còn bộ đội tự lo hết: chặt cây làm chỗ nằm, làm chạn bát, bộ đội chỉ có mặc xà lỏn cả ngày đêm, tự lo kiếm cá, bắt chuột đồng làm thức ăn. À, riêng cái màn thì phải có vì có nhiều muỗi. Tôi hỏi họ khi có công việc hay đi công tác thì lấy tư trang ở đâu: Họ nói, cả trung đội có vài cái mặc chung là đủ, khi được phát ra quán đổi lấy rượu nhậu hết.

Ở những nơi gần biên giới thì không dân, không có hoạt động cuộc sống dân sự nào, nước phèn đặc sánh bám vào da thịt như trát một màu sơn đen bóng và khô ráp. Nước ăn đều phải cho phèn chua vào (đánh phèn) mới dùng được. Các lu đựng ngả nghiêng ngoài nắng cắm cái que tràm quấy phèn khi làm nước uống hoặc nấu ăn. Những bữa ăn có gì ăn nấy, nồi cơm gạo màu nâu đỏ còn thừa để khô rang ngoài sân, mấy con chó phèn lính nuôi cũng buồn xo trong cảnh tiêu điều đó. Trong điều kiện ấy, người ta ém quân để bảo vệ đất nước thì thật khủng khiếp. Tôi không thể tin được quân đội có thể làm kinh tế trong điều kiện này.

Nói chung chẳng cần phân tích gì những con số, chúng ta đều biết chuyện bộ đội làm kinh tế là tình huống của đất nước lúc bấy giờ. Hàng triệu người lính đang canh giữ biên giới sau chiến tranh sẽ làm gì? Vào năm 2023, anh Nguyễn Kim Quất đi cùng chúng tôi thăm lại vùng công tác xưa cho chúng tôi biết thêm Đảng ta lập ra các nông trường-nông trại thực chất là nơi ém quân trá hình để phòng chiến tranh biên giới. Chắc đấy là chủ trương đúng đắn để người lính có thêm nhiệm vụ tự nuôi và khi cần huy động cho cuộc chiến. Với bối cảnh đó chúng tôi được gọi đi lính chính là cái chuyện này, cái thời cuộc này. Thời cuộc tạo ra duyên phận chúng tôi. Giá không có thời cuộc ấy, chúng tôi ra trường chia tay nhau mỗi người một ngả thì chắc duyện phận cũng chỉ nhạt nhẽo mơ hồ… Đã là thời cuộc thì các cá nhân không chống lại được, đã là duyên phận thì mỗi người cũng không tìm nhau được. Vậy cứ cho là có gì được nấy, quý từ bối cảnh đến thời cuộc, đến duyên phận cuộc đời ta. Thế chẳng phải là quá đủ rồi chăng?

Thứ Hai, tháng 12 02, 2024

Cục Kinh tế QK9: Làm quen và những trải nghiệm


Chúng tôi bắt đầu làm quen với cuộc sống mới: hàng ngày lên phòng làm việc, chủ yếu đầu giờ sáng. Rồi bắt đầu “cựa quậy” tổ chức cuộc sống và làm quen với bên ngoài.

Sáng thứ 3 ngày 14-3-1981, khi chúng tôi lên phòng đã thấy có một anh ăn mặc dân sự ở đó. Anh Tâm giới thiệu đây là anh Luận. Anh Luận người nhỏ thấp, cái lỗ mũi rộng có vẻ hơi to so với miệng, nhất là khi cười. Anh có nước da trắng nhợt, mặc chiếc áo ngắn tay màu trắng có những hoa li ti xanh nhạt. Anh Luận quê ở Hoằng Hóa, Thanh Hóa là “đồng hương tỉnh” với tôi. Anh tốt nghiệp ngành Kế hoạch trường ĐH Kinh tế - Kế hoạch (nay là ĐH KTQD), là quân nhân quốc phòng ở Đoàn 622 được hơn 2 năm, nay Đoàn 622 sáp nhập vào Cục Kinh tế. Hôm qua anh không dự họp và cũng không có ai nhắc đến nên chúng tôi không biết. Anh Luận thấy chúng tôi là người Bắc mới vào nên nói chuyện vồn vã và gần trưa thì anh mời chúng tôi qua thăm phòng anh ở khu gia binh bên kia đường đối diện Cục Kinh tế. Tôi bảo anh lúc này chưa hết giờ làm việc thì anh Luận nói ở đây có việc gì đâu, đi đâu thì cứ đi thôi.

Cả 3 chúng tôi sang phòng anh Luận. Anh Luận ở cùng phòng với anh Hòa. Anh Hòa lúc này như vừa ngủ dậy, dáng mệt mỏi, nói góp dăm ba chuyện rồi ra ngoài. Anh Luận cho biết anh Hòa là kĩ sư Thủy lợi cũng ở Đoàn 622 nay về phòng XDCB của Cục Kinh tế. Tôi thấy 2 anh ở một phòng khá rộng, không có đồ đạc gì đáng kể. Nghe chuyện được biết khu gia binh này chủ yếu là gia đình các quân nhân ở Bắc vào. Các anh đều muốn tìm cách chuyển sang dân sự hoặc ra Bắc nên có đồ gì mua được mấy năm nay đều mang về quê cả. Vậy là chúng tôi đã được biết về gia cảnh trong khu gia binh của 2 nhân sự quốc phòng trong Cục.

Mấy tháng sau, trong một buổi tối, chúng tôi cũng ghé thăm một khu gia binh khác nằm ngay mé bên hàng rào Cục Kinh tế là khu của sĩ quan trung cấp. Vào thăm phòng ông Trung tá Ba Trần Kì Vân thấy khá nhiều đồ đạc, có cả tivi đen trắng, cái quạt bàn Mỹ... Ông vui vẻ kể về con heo ông nuôi trong phòng tắm rất khôn, biết tắm chung với người. Con heo to khoảng 70-80kg, trắng hồng ụt ịt nằm trong phòng khách khoan khoái khi ông lấy cây gậy gãi gãi cái bụng to, lại còn cong chân lên để ông gãi chỗ bụng sát nách. Tôi chỉ nhớ có thế. Còn thăm phòng ông Trung tá Hai Nhật Quang thì không có heo mà có một con trăn rất to, cỡ 50kg khoanh tròn trong cái cũi sắt để ở giữa phòng khách có miếng vải che để bớt ánh sáng. Ông nói nó chỉ ăn một con vịt mỗi tháng nên rất dễ chăm. Ghé thăm nhà 2 Thủ trưởng Phó Cục chỉ thấy các ông ở một mình (chắc vợ con ở xa) và chỉ còn nhớ “2 vị heo-trăn” cùng những chuyện các ông nói về “2 vị” này. Lại thêm có chút “khái niệm” về khu gia binh của sĩ quan trung cấp.

Trong doanh trại thì chúng tôi bắt đầu có vài hoạt động như trồng rau muống hạt và nuôi gà. Rau muống dưới sông là loại rau muống dại ngọn nâu tím mọc vươn dài nổi trên nước, nhưng nghe nói không ăn được vì ngọn rau to mập này quá nhiều mủ, ăn sẽ bị sình bụng, chỉ cho heo ăn. Rau muống hạt được chúng tôi trồng trên cát, chỉ khoảng 3 tuần là cắt được sau đó tưới nước thì rau lại mọc tiếp. Rau này ăn dai và nhạt vì không có chất gì bón cho rau, lại trồng trên đất nhiều cát nên không hứng thú ăn lắm.

Chuyện nuôi gà thì cũng là chuyện đáng nói: chúng tôi “lội bộ” ra chợ lồng Ninh Kiều (khoảng 5km) tìm đến gian bán gà con. Ở đây họ bán rất nhiều gà con, vịt con ấp lò mới ra, trông chúng rất đẹp và nhanh nhẹn, tiếng kêu rất dễ thương. Chàng Giang có tài mặc cả nói với cô bán hàng trẻ nhất trong dãy: bọn anh muốn mua mấy con gà bệnh về nuôi để theo dõi bệnh tật, không mua gà khỏe. Cô bán hàng ngạc nhiên một lúc rồi nói ở đây không có bán gà bệnh, gà bệnh được chọn lọc loại thải trước khi bán nên không tìm được. Thế là Giang chọn được 5 con “gà không bệnh”. Bính tính nhẩm trả tiền, tôi xách về. Cô bán hàng cho vào cái túi giấy báo tự dán đựng 5 chú gà xinh xinh vàng ươm kêu chíc chíc. Cô lại cho cái bọc nilon xách và nhắc nhớ đừng túm bọc để bọn gà có không khí để thở. Khi ra khỏi gian hàng Giang nói: “Mình hỏi mua gà bệnh mà họ bảo không có tức là chắc chắn ta mua được gà khỏe. Nếu mình hỏi mua gà không bệnh mà cô ấy bán cho gà bệnh thì ta sao biết được”. Haha, quá khôn, quá thông minh, thông minh đến độ thông thái luôn!

Gà mua về được Giang thả vào một phòng trống, lại nhổ mấy bụi cỏ ném vào phòng cho gà có chỗ chơi (phòng này sau anh Thoải và anh Chuyên ở). Lúc mua gà cũng đã xin được nắm thức ăn là mấy cái hạt gì đó nhỏ như hạt kê trộn với tấm. Giang vãi thức ăn vào mấy bụi cỏ để tụi gà tìm ăn, làm như dạy cho chúng sớm biết tìm kiếm thức ăn trong tự nhiên. Chúng kêu rồi nép vào nhau cho ấm, lim dim ngủ cũng thấy ngộ ngộ. Nhưng số phận mấy con này ra sao thì tôi cũng không còn nhớ.

Khoảng sau 1 tuần thì chúng tôi thấy dãy nhà bên cạnh có mấy phòng nhỏ không sử dụng gì, thế là Giang - Bính - Ảnh khiêng giường qua chiếm 1 phòng cạnh phòng nuôi gà. Phòng có cửa đi phía trước và phía sau, lại có 2 cửa sổ đẹp. Bọn phòng Nông nghiệp cũng lần lượt đi tìm nơi ở khác. Chàng Khanh và Hải ở cạnh phòng tôi nhưng phòng chỉ có một cửa ra vào và không có cửa sổ (sau này Cục phân công cho Bình Hũ và Thịnh ở). Thế là 3 chúng tôi có một phòng ngủ chung khá đẹp. Cũng từ phòng này, chúng tôi tha hồ trồng hoa vào đủ thứ nhặt được kê vào tường trước cửa và cả trong phòng, đẹp nhất là hoa 10 giờ nở vào cuối buổi sáng. Sau này các em nữ sinh ĐH Cần Thơ đến chơi và khen làm chúng tôi thấy rất sung sướng.

Còn chuyện nữa chúng tôi đã làm quen được là "chuyện đi cầu”. Hôm đầu tiên vào đến bắc Mỹ Thuận và bắc Cần Thơ chúng tôi đã thấy cái cảnh “đi cầu” ở khu chờ phà và lấy làm lạ lắm. Khi đến Cục Kinh tế, người ta cũng có dựng một nhà cầu phía cái ao nhỏ trên bờ ao mọc toàn cây trứng cá. Lúc mới đến tôi chỉ dám “đi cầu” vào ban tối vì tụi cá zồ quẫy đớp thức ăn bắn nước lên ướt cả người. Cạnh đó phía ngoài ao cũng có 2 cái nhà cầu kê liền nhau của khu dân cư ngoài doanh trại. Lạ nhất là chúng tôi thấy người chờ “đi cầu” hoặc khi đang “ngồi cầu” cạnh nhau vẫn nói chuyện rất tự nhiên. Có khi cả nam và nữ cùng đang “ngồi cầu” mà nói chuyện như đang đứng bên bờ ao. Cầu chỉ che sơ sài bằng mấy là dừa nước từ ngang lưng người ngồi trở xuống dưới, buộc trên mấy cái cọc. Từ bờ ra đến cầu khoảng 2-3m, có mấy khúc cây buộc lại, có cái que làm tay vịn để ra chỗ ngồi. Lũ cá zồ nuôi dưới ao quẫy đớp tranh ăn mỗi khi “của quý” rơi xuống. Người dân ở đây ngồi trong tình cảnh như thế mà vẫn thản nhiên nói chuyện như không có gì xảy ra. Mãi sau này chúng tôi cũng không quen được và vẫn thấy ngại khi “ngồi cầu” mà có ai đó nhìn thấy.

Một chuyện khác cũng đã biết: chúng tôi cải thiện bữa ăn bằng cách xin đem cơm về phòng, mua thêm mấy thứ để ăn thêm. Ra chợ Cái Khế gần đó, món lính ta mua mấy trăm gram thịt heo ba chỉ về rim cà chua hoặc mua cá về nấu canh chua. Cá zồ được các má giúp làm sạch. Khi chọn được cá, cân xong thì các má lấy cái búa gỗ đập một cái cho cá chết, lấy dao khía gọn cái ruột cá bỏ đi để tránh bị dính “những thức ăn màu vàng vàng” chúng đã đớp dưới ao, rồi buộc cổ cá vào cái dây lạt xách về. Khi ghé qua chỗ mua gia vị, mấy má thấy xách dây buộc cá nên lấy ngay một chút me muối, rau ngò nước (ngổ), rau ngò khô (mùi tàu), một quả dứa gọt vỏ sẵn, mấy quả cà chua, hành lá… gói vào lá chuối đưa cầm về. Ở đây bộ đội đi chợ mua những thứ này không phải “mặc cả” gì vì đều là thức ăn bình dân và người bán hàng phương Nam rất thật thà, dễ tính, lại thương bộ đội nên mua bán rất dễ. Cũng từ đây chúng tôi đều rất thạo món nấu canh chua cá zồ. Rồi lần đầu tiên mua rượu nếp than thấy họ cho rượu vào cái bọc nilon màu nâu xách về chứ không phải mang chai đi mua như ngoài Bắc. Rượu nếp than màu tím đen chừng hơn 20 độ, nấu thủ công uống hơi ngọt, rất dễ uống, nhưng vì có độ ngọt đó mà say kinh khủng.

Cũng những tuần đầu tiên chúng tôi được biết 2 thông tin quan trọng qua chàng Thiện: a/ Đại lộ Hòa Bình - trung tâm thành phố Cần Thơ có 2 thư viện lớn là Thư viện tỉnh Hậu Giang và Thư viện QK9; b/ Trường ĐH Cần Thơ cách doanh trại khoảng 6-7km. Sau này đây là những đến trong gần 4 năm chúng tôi ở đây. Tôi sẽ kể sau những chi tiết các lần thăm đáng nhớ.