Đó là những năm tháng tôi luôn thấy rất hài lòng sung sướng về văn hóa, tinh thần. Tôi tóm tắt sau đây các hoạt động chính trong gần 2 năm ở Cục Kinh tế.
1/ Đọc sách
Khi
phát hiện ra có 2 kho sách lớn là Thư viện QK9 và Thư viện Hậu Giang, chúng tôi
đã đến tìm hiểu thủ tục và làm thẻ mượn sách. Quá dễ để mượn sách vì khi đó ít
người đọc và có lẽ người dân phía Nam lúc này chưa quen với dòng sách đưa từ Bắc
vào. Hồi ở trường đại học chúng tôi không dễ được đọc sách văn học, chỉ là chuyền
tay nhau đọc những gì “mượn nóng” ở bạn bè. Thư viện trường chỉ chủ yếu là sách
kĩ thuật, hầu như không có sách văn học. Ở Thư viện Hậu Giang và Thư viện QK9 có
rất nhiều sách văn học, nhất là các dòng sách dịch từ các tác giả văn học cổ điển
Pháp, Nga, Anh,… nên chúng tôi có dịp làm quen với các thể loại này. Chúng tôi
có “Thẻ bạn đọc” tiếp cận với 2 kho sách lớn – đọc cả đời không hết như một số
bạn nói vui.
Tôi
hàng tuần đi mượn trả khi mỗi cuốn đọc xong. Lúc đầu chưa biết cách đọc, tìm
trong hộp thẻ thấy hay thì mượn. Trong sổ tay ghi chép của tôi, hết năm 1981
tôi đã đọc được hơn 60 tác phẩm văn học, đến 1984 tôi có lẽ đã đọc được gần 200
cuốn tại các thư viện này. Các tác giả trong nước thì dễ định hình vì dù sao cũng
đã biết ít nhiều. Nhưng tác tác phẩm nước ngoài thì có khó khăn trong lựa chọn.
Phải thời gian sau tôi mới biết lựa chọn theo các tác giả lớn, theo các thể loại
sách và theo dòng văn học các nước.
Về
văn học Nga, các lựa chọn đầu tiên là Lev Nikolayevich Tolstoy với các tiểu
thuyết Chiến tranh và hòa bình, Anna Karenina, Sống lại (sau này dịch là
Phục sinh)… Aleksey Nikolayevich Tolstoy là Con đường đau khổ. Fyodor
Dostoevsky là Tội ác và trừng phạt, Anh em nhà Karamazov. Rồi hầu hết
các sách dịch của Maksim Gorky, Konstantin Georgiyevich Paustovsky, Ivan Sergeyevich
Turgenev, Chyngyz Torekulovich Aitmatov, Mikhail Aleksandrovich Sholokhov, Boris Polevoy, Rasul
Gamzatovich Gamzatov, Ilya G. Ehrenburg (chỉ đọc Pari sụp đổ của Ilya
G. Ehrenburg). Thơ thì đọc Aleksandr Sergeyevich Pushkin, Mikhail Yuryevich
Lermontov…
Văn
học Pháp có Victo Hugo (Những người khốn khổ, Nhà thờ Đức Bà Pari,…), Honoré
de Balzac (Miếng da lừa, Tấn trò đời,…), kịch của Molière,…
Văn
học Anh có Romain Rolland (bộ tiểu thuyết 10 tập “Jean-Christophe”,
Charles Dickens “David Copperfield”, William Shakespeare (kịch)…
Văn
học Ý chỉ đọc Ruồi trâu của Ethel Lilian Voynich. Văn học Tây Ban
Nha chỉ đọc “Đôn Ki-hô-tê nhà quý tộc tài ba xứ Mantra” của
Miguel de Cervantes Saavedra.
Thật
là cả một kho vô tận, đọc ngấu đọc nghiến, đọc lấy được… để thỏa cơn nghiện
sách từ hồi còn học phổ thông.
Từ
khi quen các bạn gái ở ĐH Cần Thơ thì bắt đầu thêm thể loại sách thơ trong nước
và thế giới. Lại còn mua cả Lá cỏ của Walt Whitman (nhà thơ Mỹ), hay loại
thơ bậc thang của Vladimir Vladimirovich Mayakovsky (nhà thơ Nga) để tặng nhân sinh
nhật các bạn gái, nay nghĩ lại buồn cười ghê.
2/ Thể thao
Chuyện
thể thao thì cũng rất thú vị: sau khu nhà làm việc có 1 sân bóng chuyền và 2 bàn
bóng bàn. Thế là có dịp thử các món nay. Về bóng bàn thì không ai dạy cứ vào để
gõ rồi quen dần. Hồi đi thực tập ở Hải Hậu, tôi và Giang cũng đã qua Nhà văn
hóa huyện đánh bóng bàn vài lần, nhưng vì chưa từng cầm vợt nên chỉ chờ khi các
cao thủ nghỉ mới vào làm vài set. Có lần Giang đánh với 1 cậu bé, nó nói nó đang
học lớp 2, và lớp 2 thì học rất khó. Giang bảo với nó: đúng thế, học lớp 2 khó
lắm nên hồi tao học, tao lên học luôn lớp 3 cho dễ. Mày về bảo mẹ xin cho lên lớp
3 hoặc lớp 4 luôn đi. Nó cười tiu cho mấy quả không đỡ được. Nay doanh trại có
bàn hẳn hoi, tha hồ tập. Chỉ tiếc là cũng khá đông thằng muốn thử sức nên phải
làm trò “thắng ở - thua ra”. Cái bàn bóng để cạnh phòng làm việc của các
chú Ban Chính sách Quân khu. Có chú người Nghệ An phàn nàn rằng chúng tôi làm ồn
ào trong giờ làm việc, nhưng sau thấy chúng tôi toàn người Bắc và thế là Bính
quen ngay với các chú. Sau đó thì chơi cả trong và ngoài giờ không ai nói gì. Chơi
bóng bàn thì Bính có chiêu đứng sát bàn tạo ra “thương hiệu úp bóng và dúi
bóng” rất nhanh, khó đỡ của nhiều đối thủ.
Cái
sân bóng chuyền thì phải sau 4 giờ chiều mới ra đánh được vì nắng quá. Các anh
phía Nam chơi giỏi nhất là anh Giản, có lẽ anh trước đã ở trong đội bóng nào đó
nên có lúc mình anh chấp cả 3 người: bên kia là Ngọc, Hà và Minh, có khi cả Tâm
cũng vào mà anh vẫn thắng. Ban đầu quy định “3 bát” thì mỗi khi anh Giản có
bóng và tự đánh “3 bát” thì 100% thắng nên anh Ngọc đề nghị chỉ cho anh Giản “1
bát” qua luôn thì dai dẳng được dăm bảy lần đổi bóng. Khi anh Giản phát thì 80%
là ăn nên anh cũng nương tay chút để kéo dài cuộc chơi. Từ khi có chúng tôi ra
xem, anh Ngọc rủ chơi thì Giang chơi hay nhất. Tôi và Bính (sau này cả Chuyên)
cũng vào chơi nhưng loẹt quẹt thôi. Mặc dù trước học bóng chuyền đã đạt điểm
khá vì có thể giữ bóng và chuyền cho nhau cả 20 lần chưa rớt nên có biết tí kĩ
thuật chuyền. Ban đầu các anh khen biết đánh cơ bản, thế là được xếp vào sân
cho đủ quân số. Khi anh Thoải về, anh Giản huấn luyện để Giang và Thoải được tấn
công trên lưới nhiều hơn. Từ đấy chúng tôi các buổi chiều ra sân là gần đủ quân
số từ 10-16 người. Tha hồ cho anh Giản phân công bố trí đội hình để cân bằng
quân số. Hôm nào thiếu thì bên anh Giản giảm bớt, có khi chỉ còn 2-3 người còn
bên kia đủ mà vẫn thua. Vui đáo để. Cuối năm 1981, chúng tôi đã có đội bóng
riêng của Cục để đi dự đấu ở Cục Hậu cần. Tôi lần đầu tiên được vào sân thi đấu,
lúc bóng bên kia đánh sang chắc chắn đã ra ngoài sân nhưng tôi lại chạy ra bắt
trước khi rơi, bị mất điểm lại bị chê cười đỏ mặt không còn tự tin đánh nữa.
Haha, thế là tôi cũng đã từng là thành viên của đội bóng chuyền Cục Kinh tế
đánh với các đội bạn trong Quân khu.
Có
những chi tiết tôi rất nhớ: Giang thì cao khỏe, có năng khiếu bóng chuyền, khi
những năm cuối ở trường ĐH tôi thấy Giang có lúc lên chơi sân nhà tập thể A1 khu
cán bộ với các thầy giáo. Khi vào quân đội, Giang được anh Giản thấy khả năng
cơ bản nên bồi dưỡng kĩ thuật để Giang nhảy cao, đập mạnh cắm vạch 3 mét. Còn
anh Thoải thì cũng đã đánh rất cơ bản nhưng anh to và thấp nên món đập hay bị
rúc lưới, nhưng món chắn bóng khá hay. Có lần Cục mời đội bạn đến chơi, họ có vài
cây đập tốt nên đội Cục Kinh tế yếu thế, anh Giản nói nhỏ với anh Thoải gì đó,
thế là anh ấy chắn bóng thành công lắm, còn bên kia có vẻ không dám đập nữa.
Chiều về anh Thoải nói: “Có gì đâu, nó nhảy lên đập là mình nhảy sớm hơn chút đập
thật mạnh vào tay nó, nó khiếp không dám nêu bóng gần lưới nữa. Mấy quả mình đập
trúng tay nó, tuy mình bị lỗi dính lưới nhưng tay nó đau nên đánh sao nổi. Ta
nhất định thắng”. Quả là lắm mưu, không biết có phải là cú nói nhỏ của anh Giản
với anh Thoải không, nhưng từ đó anh Thoải cơ bản chỉ luyện chắn và đập sát lưới
– bị lỗi chạm lưới và làm bị thương tay đối thủ !!!
Một
chuyện cũng nên kể là hồi đó có những dịp đấu lớn ở QK bộ, trong T80. Thủ trưởng
cho chúng tôi đi xem. Xe thì ít nên anh Vui chở đi vài chuyến mới hết. Lần ấy đội
bóng chuyền QK9 thắng, lúc về mọi người leo kín xe Jeep của anh Vui, xe tốc hết
bạt lên để mọi người bám vào, vừa đi vừa la hét vui mừng chiến thắng. Về đến Cục
đếm ra có tới 17 anh em bám kín xe Jeep 4 chỗ. Vui mà quên cả quy định an toàn.
3/ Tổ chức kỉ niệm 22-12
Năm
1982, Cục Kinh tế tổ chức liên hoan 22-12. Bữa liên hoan rất thịnh soạn, chúng
tôi được dự “bữa cỗ” lớn nhất trong đời: có 6 con tôm to bóc vỏ màu đỏ móc
trong quả dừa trắng, cua biển thì gỡ lấy thịt ra trộn với gì gì đủ thứ nữa rồi
cho vào cái mai cua chiên lên, rồi thì đủ món lạ và ngon chưa từng được nếm. Hồi
này chị Thượng úy Thủy về làm quân nhu nên cuộc sống cải thiện dữ lắm, ăn uống
cứ gọi là thoải mái, cơm nhà bếp mà thịt kho tàu ăn không hết. Bữa liên hoan hôm
đó Cục đón nhiều khách, không biết họ là ai nhưng thấy các thủ trưởng vui đón
chào tưng bừng, còn chúng tôi chỉ biết ngắm nhìn khách và vào mâm xơi các món lạ
kiểu phương Nam thật hết sức thú vị, khó quên.
Có
2 mục tôi vẫn còn nhớ: Đoàn Thanh niên Cục làm báo tường và biểu diễn văn nghệ.
Trong chúng tôi chưa ai đã từng làm báo tường khi ở Đại học. Vào đây được các anh hướng dẫn, tôi được vào ban biên tập và chép bài. Mỗi Phòng có một tờ báo tường để dự thi trong Cục. Anh Tâm động viên phân công bài viết, tôi và anh Ngọc trang trí, sau có thêm anh Luận. Khi thu bài để chép lên tờ A0 mới biết thì ra đều như nhau cả, mọi thứ đều làng nhàng kiểu viết cho xong, cho có bài thôi. Tôi làm 1 bài thơ, còn anh Tâm viết xã luận. Bính viết bài truyền thống quân đội. Tập hợp mọi người cũng kín được 1 trang A0 chia ra các mục. Bài thơ của tôi ngớ ngẩn thôi nhưng được Vũ Minh Châu phòng Nông nghiệp khen hay nên cũng thấy sướng. Lúc này chúng tôi đang quen mấy nữ sinh ĐH Cần Thơ nên tâm hồn phơi phới tinh thần anh – em, lính – nữ sinh. Tôi vẫn còn lưu được bài thơ của tôi “Anh kể với em về đời lính gian nan..." đăng báo tường lần ấy trong sổ tay. Sổ tay ghi rõ Cần Thơ 8/82, như vậy đã sáng tác trước khi làm báo tường, hay lấy 1 bài đã sáng tác để đăng lên báo tường (xem hình bên dưới). Có mấy câu mà Châu nói là rất thích:
“… Biết vá may và biết nấu cơm
Biết trăm chuyện điều bình thường giản dị
Khi
qua sông cũng biết ca điệu lí
Đêm
rừng khuya biết làm thơ cho em”.
Còn
tối liên hoan văn nghệ thì chúng tôi không được phân công chuẩn bị gì. Hôm đó
tôi đi đón các bạn nữ ĐH Cần Thơ đến xem, khi về đến đơn vị thì đã biểu diễn. Sân
khấu ngoài trời kê trên mấy cái bàn trước Phòng họp của Cục, còn người xem đứng
quanh trong sân. Có 1 tiết mục mọi người rất chú ý: Bài liên khúc 3 miền (hát
liền 3 bài, nhưng cơ bản là giọng 3 miền) do một nữ “ca sĩ mượn”: đó là vợ anh
Thoải vào thăm chồng đăng kí lên sân khấu hát. A ha, nhóm Bắc đã góp được một
tiết mục rất độc đáo, anh Thoải cũng lên hát với vợ. Vợ chồng anh Thoải có 1 kỉ
niệm đáng nhớ.
4/ Cải thiện đời sống tinh thần
Lúc
này, chúng tôi có đời sống vật chất khá đầy đủ về ăn uống, công việc thì không
có gì đáng kể, mới có vài chuyến đi công tác về các tỉnh. Trong khu ở, chúng
tôi trồng được nhiều chậu hoa mười giờ nhiều màu, thỉnh thoảng được đón khách vào
chơi. Các cuối tuần đôi khi còn mời được cô giáo Hòa dạy tiếng Nga ở ĐH Cần Thơ
đến ăn tối, nhất là khi cô rủ mấy bạn nữ sinh đến nên rất vui. Cô Hòa đã dạy tiếng
Nga hồi chúng tôi học ĐH Nông nghiệp I, sau này cô chuyển vào ĐH Cần Thơ nên chúng
tôi coi như người quen cũ, nhiều lần đến nhà cô chơi. Cả cô Hòa và thầy Liễn (chồng
cô Hòa) đều quý chúng tôi, coi như người thân trong những năm đầu chúng tôi ở Cần
Thơ.
Chuyện
quen với các nữ sinh ĐH Cần Thơ cũng là niềm vui đáng quý. Các buổi cuối tuần vào
kí túc xá ĐH Cần Thơ hoặc đôi khi đón các em đến doanh trại hay đi chơi cùng
nhau cũng rất háo hức (tôi sẽ viết riêng thành một bài khi có dịp).
Tết
năm 1982 cũng là một trải nghiệm hay. Gần Tết, chúng tôi lên nhà Thủ trưởng Hai
Chước gói bánh chưng kiểu Bắc và ăn tất niên với vợ chồng ông. Tôi đã làm bánh
chưng gói khuôn lá dừa như quê tôi vẫn làm, bánh rất vuông vắn, đẹp được mọi người
phía Nam trong khu ở của ông Hai Chước khen gói giỏi.
Chúng
tôi tự tổ chức Tết trong doanh trại, tự trang trí phòng, làm chỗ trang trí bàn
thờ, thắp hương cho đỡ nhớ nhà. Chúng tôi mua giấy màu, vẽ và cắt dán nhiều hình
ảnh lên cửa, lên tường ở các giường ngủ cho vui mắt. Nơi ngủ của nhóm anh em của
Phòng Nông nghiệp rất rộng nên Thiện và Châu còn trang trí cả Quốc kì. Đúng Giao
thừa mọi người uống rượu chúc nhau. Khi nhóm anh em bên Phòng Tài vụ qua chúc Tết
thấy có Quốc kì tra cán hẳn hoi buộc vào một buồng chuối to trên tường kèm theo đủ thứ hoa quả thì anh Huệ yêu
cầu tập trung Chào cờ, hát Quốc ca. Thật lạ, mọi người rượu đã ngà ngà say, đứng
bên nhau hát Quốc ca đêm Giao thừa trong doanh trại – đời tôi chỉ thấy một lần.
Sáng Mồng 1 Tết cả một đoàn bộ đội quân phục tề chỉnh rộn ràng kéo nhau đi chúc
Tết những người quen trong thành phố cho vơi bớt nỗi xa quê nhớ nhà.
Đó thật sự là những ngày vui sướng của đời lính thời bình. Tôi viết xong được bài này cũng coi như đã kể lại được một phần đời trai chúng tôi một thuở tràn trề năng lượng sống, vô tư không nhiều vướng bận riêng tư. Riêng tôi, tôi thấy rất đáng quý trọng vì những năm tháng này có nhiều kỉ niệm bên nhau – không quá sâu nặng, không có chia li hay sự hi sinh xương máu – nhưng luôn man mác một tình cảm trong sáng, nhẹ nhàng thư thái ung dung đầy tính tự nhiên phóng khoáng. Cứ như là một vốn sống đem theo làm chỗ dựa tinh thần trong cuộc đời nhiều năm công việc sau này.
[1] Trận Phai Khắt và Nà Ngần ngày 25 và 26 tháng 12 năm 1944 là 2 trận đánh đầu tiên của đội Việt Nam Tuyên truyền
Giải phóng quân, tiêu diệt 2 đồn nhỏ
là đồn Phai Khắt và đồn Nà Ngần, do đích thân Võ Nguyên Giáp chỉ huy.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn_Phai_Kh%E1%BA%AFt_v%C3%A0_N%C3%A0_Ng%E1%BA%A7n
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét