Chủ Nhật, tháng 3 30, 2025

Các chuyến đi Minh Hải (kì 1)

 

Tỉnh Minh Hải sau này được tách ra thành Cà Mau và Bạc Liêu[1]. Tôi có nhiều chuyến đi Minh Hải từ 1981-1983, gồm các chuyến đến Nông trường Muối 416 ở Bạc Liêu, các lần đến Tỉnh đội ở Cà Mau và chuyến đi rừng U Minh hạ.

Các đồng đội cùng đợt vào được phân công về Minh Hải gồm Lê Tiến Dũng (ngành kinh tế nông nghiệp ĐH NNII), Trần Nhật Bính (ngành trồng trọt ĐH NNI) và Nguyễn Văn Tuất (ĐH Tài chính) và một số đồng đội học từ nhiều trường đại học khác được phân về các NTQĐ trực thuộc QK9. Theo ghi chép của tôi, tỉnh Minh Hải gồm 3 NTQĐ là Khánh Hà (diện tích 2100ha), Khánh Hải (2780ha) và Đông Hà (2750ha). Tỉnh còn có 9 nông trại, mỗi nông trại 100ha có tên là U Minh, Trần Văn Thời, Thị đội Minh Hải, Giá Rai, Phú Tân, Hồng Dân, Thới Bình, Cái Nước và Năm Căn. Ở NTQĐ Khánh Hải, cuối năm 1982, các bạn Nguyễn Văn Nên, Hải (Kì Lừa) đã được Cục Kinh tế điều về bổ sung nhân sự, nhưng tôi không có dịp nào đến Khánh Hải nên chỉ gặp được các bạn khi họ có dịp lên Cần Thơ công tác.

 

a/ Các chuyến đi NTQĐ làm muối phiên hiệu 416

Tôi có tất cả 4 lần đi 416. Chuyến đi cùng Cục phó Trung tá Trần Kì Vân[2] đã ghi chép là chuyến đi thứ 2.

Lần đầu tiên tôi đến 416 thì Nông trường còn rất hoang sơ. Đơn vị mới chỉ có 1 anh trung úy tên Lương người Nông Cống Thanh Hóa phụ trách và vài bộ đội cần vụ. Lúc này đang còn ở giai đoạn khai hoang, xây dựng cơ bản ruộng muối. Khu Nông trường bộ là một khoảnh đất rộng chừng 1000 m2 được san lấp nằm trên sát đê quai (phòng thủy triều tràn vào khu sản xuất và cư trú của dân). Đất được máy đào lên từ các ruộng rồi san phẳng, mưa xuống rửa trôi còn thấy rõ màu dòng chảy nước phèn trên nền sân. Có 2 cái lán lợp dừa nước sát nhau mé phía biển, còn phía đê là cái sân rộng để trống. Xe Jeep từ đường đến ấp có thể vào tận cái sân này.

Một căn lán gọi là nhà công vụ có cái bàn kê trên nền đất nện cao hơn mặt sân chút ít. Vài cái giường đơn giản kê phía góc. Cái lán thứ 2 có gian đầu hồi là nơi ngủ của anh Lương, tiếp theo là các gian kho và bếp.

Ngoài ruộng muối thì tôi thấy người ta dùng máy san vùng sình lầy làm ruộng muối. Có những máy thuê đắp bờ các vuông muối và máy san nén mặt ruộng. Các ruộng có rãnh lấy nước biển. Các ô muối được xây dựng cách khu lán trại chừng 500m và một đường từ bờ đê quai cho xe có thể xuống được khu tập kết muối. Phía ngoài các vuông muối là mênh mông rừng ngập mặn của những cây mắm. Mắm ở đây mọc khá dày, khi triều lên ngập gần hết, nhưng triều rút thì thấy cả rừng rất dày đặc chạy xa tít ra biển. Có cả một hệ sinh thái ăn theo: cá ăn quả mắm, tôm cá, cua ăn sống theo bên dưới rừng mắm. Những chỗ sình lầy nước lên xuống luôn có hàng trăm con cá kèo chạy ào ào trên mặt bùn sát mé nước rất sinh động.

Lần đầu cũng không có gì đáng nói, chỉ là được phân công xuống nắm tình hình chung. Anh Lương dẫn đi một lúc thì tôi cơ bản biết hết công việc đang diễn ra. Ở chuyến đi lần đầu tôi chỉ còn vài mẩu chuyện đáng nhớ.

Một buổi sáng, anh Lương gọi cần vụ ra lấy cá làm thức ăn. Tôi theo ra sân thấy người dân trong ấp đi bắt cá về đang đứng trên sân doanh trại. Họ bắt được một con cá sủ rất to và một giỏ lớn cá cua các loại. Họ đặt con cá sủ xuống sân, cá dài khoảng cỡ 1 m, cái bụng sáng loáng to phình ra. Họ mượn dao mổ bụng lấy cái bao tử[3] cất đi rồi bảo anh lính cắt một phần thịt phía bụng (phía bụng thịt mềm, rất béo). Họ bảo cá kèo muốn lấy bao nhiêu thì lấy nhưng chỉ nên lấy đủ ăn trong ngày. Ăn ngày nào thì lấy đủ ăn ngày ấy cho ngon. Dân ở đây cho bộ đội cá không thấy tiếc gì cả. Có lẽ do nguồn cá dễ kiếm và dân ở đây quý bộ đội chăng? Anh Lương bảo cá kèo thì không ai bán chác gì cả, mà dân không cho thì mình đi bắt một lúc cũng đủ bữa ăn trong ngày. Cá chạy đầy nhóc ở bãi sình sát bờ biển chỉ cách doanh trại vài trăm mét.

Một chuyện khác là một tối anh Lương rủ tôi đi nhậu với dân ấp. Có khoảng 6-7 bác ngồi nhậu trên cái chiếu kê ra bãi cỏ cạnh bờ kênh. Họ thường ngồi nhậu ở đây cả trưa và tối, có khi từ trưa đến tối luôn. Một cái chảo con đặt trên cái bếp lò đất nung nấu món canh chua cá để đưa rượu. Kiểu uống rượu một li quay vòng. Tôi và anh Lương ra thì các bác đang uống rồi. Thế là ngồi vào cùng vui. Anh Lương uống một lúc thì kêu mệt bỏ nhiều vòng không uống. Tôi thì cứ đến vòng thì uống nhưng sau cũng oải dần. Có một ông chú ngồi cạnh nói nhỏ: mày cứ nhận li rồi đưa chú uống cho, đừng chối. Ha ha thế là có người uống giùm. Rượu không nặng lắm nhưng cứ uống mãi cũng kinh chứ. May mà ông chú uống giùm này lấy tay che kín cái li nên mọi người mải chuyện không biết. Thế là ông ta coi như được gấp đôi số rượu trong mỗi vòng uống. Tôi còn rất nhớ cái khuôn mặt nhỏ thó, gầy gò, miệng thì mém do mất nhiều cái răng nên nói cũng không còn tròn tiếng, nhưng mắt ông ta thì vui lắm vì được thêm suất uống. Có lẽ ông ta là dân nghiền món nhậu này.

Lần thứ 2 tôi đi cùng xe với Thủ trưởng Ba Kì Vân. Khi xe đưa ông về trước thì tôi còn ở lại mấy ngày. Chuyến đi đó còn có thêm anh Nguyễn Văn Minh và 2 vệ binh bổ sung là Thắng và Dũng. Thắng được gửi xuống làm nhiệm vụ ghi chép (kiểu kế toán) vì Thắng làm việc cẩn thận và chu đáo, nói được người khác nghe. Còn Dũng là sinh viên đại học Cần Thơ đi lính nghĩa vụ nhưng ở Cục kinh tế làm vệ binh thường hay say xỉn, lại là dân Bắc tập kết. Gia đình Dũng ở Bạc Liêu nên được Cục cho về đây để được gần nhà (nhưng thực chất là không muốn nhận một anh vệ binh của Cục không nghiêm túc lại thường hay say xỉn khi làm nhiệm vụ).

Một tối anh Minh gặp người quen ở ấp nào đó quanh đấy đến doanh trại chơi và hát cải lương. Anh ấy có dẫn theo mấy em thôn nữ, trong đó có một em to tròn chắc nịch căng đẫy mọi bộ phận. Em ấy biết hát và hát rất khỏe những bài cải lương dân dã. Anh Minh nghe chừng thích thú lắm. Anh nói khi nào em lên Cần Thơ thì anh sẽ dẫn đi giới thiệu với người quen ở nhà văn hóa nào đó thử giọng để có cơ hội tuyển dụng, ở đây người đẹp hát hay thì phí quá (!). Tôi không biết hát và cũng không rành nghe hát nên đi ngủ sớm còn đội hát về khi nào tôi cũng không rõ.

Nói chung chuyến đi của Thủ trưởng Kì Vân như là những quyết định để các đầu tư về sau của 416 được nhiều hơn cho việc chuẩn bị sản xuất muối.

Lần thứ 3 tôi đến 416 sau đấy mấy tháng. Lúc này có 2 điểm mới: Thiếu úy Giang Thành Phong được cử về làm phó cho anh Lương (có mang theo cả vợ mới cưới). Còn Trung úy Lương mới về quê cưới vợ và cũng mang vợ vào. Cả 2 vị trưởng phó đã cất được 2 căn nhà lá phía sau doanh trại. Mỗi căn chừng hơn chục m2 mái lá, liếp lá và nền đất, nhưng cũng gọi là có cái nhà riêng.

Hôm đó tôi đến đã là chiều tối, mọi người đã ăn xong. Cần vụ đưa tôi sang nhà anh Phong. Anh Phong và vợ tiếp tôi, nấu cơm mời tôi ăn trong căn nhà riêng đôi vợ chồng mới cưới rất tình cảm. Tôi ăn một mình vì mọi người đã ăn chiều rồi. Vợ chồng Phong ra nói chuyện vui vẻ. Phong người gốc Hoa, anh đẹp trai, nói năng giỏi, rất hợp với ông Ba Kì Vân nên được ông cử về đây như một sự tin cậy của ông để phát triển đơn vị. Mà hình như anh Phong cũng là dân Bạc Liêu nữa (cái này tôi không chắc lắm). Phong còn có tài văn nghệ đàn ca sáo nhị đều giỏi, cô vợ cũng người Hoa khá xinh và kín đáo. Lần ấy anh Lương đi công tác vắng nên chỉ có cô vợ mới cưới ở nhà một mình. Khi anh Phong chỉ tôi nhà mới cất của anh Lương bên cạnh, tôi thấy ngôi nhà tối thui, chắc cô vợ đã ngủ sớm.

Khi ăn xong tôi trở lên nhà công vụ đã thấy Thắng chuẩn bị cho tôi chỗ ngủ chu đáo. Chuyến này tôi ở đấy mấy ngày, được ra xem kĩ thuật lấy nước vào vuông muối, vuông muối phơi dưới nắng cho nước bốc hơi nên mặn dần và cứ thế các ruộng muối phía trong được bơm nước có độ mặn rất cao rồi khô thành muối. Người ta lấy dụng cụ thu muối dồn về thành đống rồi cho vào cần xé vác lên bờ thành các đống. Cách làm này thì muối không sạch như ruộng muối ở ngoài Bắc.

Chuyến đi ấy tôi còn được trải nghiệm một công việc rất thú vị, đó là đi “xổ tôm” ngoài rừng mắm. Người ta đắp một cái đập nhỏ để bao 1 khu đất gần bờ trong rừng mắm ngập nước và đặt ở đó một cái bẫy tôm cá. Khi nước triều rút, lũ cá tôm theo nước ra gặp bờ bao nên dồn hết vào cái chỗ có cái lưới và cuối cùng chui hết vào một cái giỏ lớn. Giỏ đầy tôm cá các loại, phải khiêng lên đổ ra lòng cái ghe nhỏ kéo theo. Tôi thấy rất nhiều tôm, cá nhỏ, có cả cua, mấy con rắn nước. Một người dân bảo: hôm nay có con đẻn béo núc, lát nữa ta có bữa nhậu ngon đây. Thế là mọi người chọn lấy mấy thứ ngon nhất cho bữa nhậu ngãy ngoài bờ đập.

Anh dân ấp bắt con rắn nước ra cầm trên tay. Con rắn to nhưng ngắn, béo căng màu các sọc ngăm đen. Anh bảo đó là loài đẻn biển có trứng[4] rất bổ. Rồi anh ta lấy tay vỗ vào da, con rắn vẫn sống nhưng rách da lưng lộ lớp thịt trắng bóng. Anh nói: mùa này đẻn sinh sản nên rất béo, bụng nó có trứng rất ngon, còn thịt nó thì số dzach, ngọt và thơm rất đáng đưa mồi nhậu. Tôi được thưởng thức món lạ tươi ngon bậc nhất – chắc chỉ có người dân mới được tận hưởng của lạ này, tất nhiên rồi. Cái ngon nhất lại hiếm có thế mấy khi mua được ở chợ.

Ảnh minh họa con đẻn biển có trứng

Thu hoạch của tôi trong chuyến đi này là được biết thêm cách làm muối của người Nam bộ và chuyện “xổ tôm” ngoài rừng mắm ven biển của người dân xứ này.

Lần thứ 4 tôi đến với 416 thì đã có nhiều muối được sản xuất ở đây. Lúc này là khoảng đầu năm 1983 vì chúng tôi đã chuyển về Cục Hậu cần. Tôi đến 416 thấy người ta chở muối lên các chỗ đất phẳng được lát bằng lá dừa nước, đổ muối lên thành những ụ lớn, lấy lá dừa nước che lại thành những cái đụn muối ngay bờ các vuông muối để chờ mang đi tiêu thụ. Cũng toàn chuyện người dân làm thuê cho bộ đội theo các hợp đồng gì đó giữa anh Lương với dân nên tôi không quan tâm nhiều. Lính làm kinh tế thì cũng chỉ là trả công theo sản phẩm hoặc theo công nhật, ở đâu cũng thế.

Chuyến đi lần này thì có thêm mấy chuyện: biết tin Dũng đã mất do tai nạn[5] lần đi ra chợ uống rượu về. Còn anh Lương lúc này đã lên thượng úy và anh Phong cũng như bọn tôi cũng vừa lên trung úy.

Lần này anh Lương ở nhà nên tôi có dịp vào thăm nhà anh: một cái lán nhỏ cũng như của Giang Thành Phong tôi đã vào lần trước nhưng sao tôi cảm thấy không được sáng sủa như nhà của Phong. Bên ngoài có mỗi chiếc giường một và một cái bàn nhỏ xíu uống nước, còn bên trong thì chắc phòng ngủ và sau nữa là bếp của vợ chồng. Cô vợ tên Thơm người Nông Cống còn trẻ lắm, khoảng 20 tuổi. Anh Lương về phép cưới cô Thơm cùng làng rồi đưa vào đây. Lương với tôi coi như đồng hương tỉnh và quê tôi cách quê anh chừng 50km gì đó. Cô vợ trẻ nói toàn tiếng quê Thanh Hóa, lại ngây thơ (kiểu ngây ngô một chút). Chắc Thơm lớn lên chưa có dịp được đi xa quê bao giờ. Tôi nghĩ cô ta cũng chỉ mới học xong cấp 3 rồi cưới chứ chưa đi học ngành nghề gì.

Sáng hôm sau đó Lương nói với tôi ở lán công vụ: - “Anh phải lên quân khu công tác mấy ngày. Anh nhờ em đến ngủ ở nhà anh để cho Thơm đỡ sợ nhé. Thơm ở một mình cứ lo sợ không ngủ được”. Ôi thôi, làm sao bây giờ.

Bỗng đoàng một cái, anh Lương và mọi người lao ra sân. Thắng đang nghịch khẩu súng K57 của anh Lương, tưởng súng không có đạn nên đã bóp cò, may mà súng chĩa lên trời. Lương hoa mắt trách Thắng rồi cất súng đi. Thì ra Lương nhờ Thắng chuẩn bị đồ đi công tác lại sơ ý để khẩu K57 ra nên Thắng nghịch súng rất nguy hiểm. Thật là đáng rút kinh nghiệm.

Mấy ngày ấy cứ tối là tôi về ngủ ở cái phòng khách của nhà Lương. Thơm chỉ ra chào rồi vào buồng ngủ. Lương thì đi công tác mấy ngày sau mới về. Tôi thì chờ Lương về để tôi về Cần Thơ.

Trước khi tôi về Cần Thơ, Lương kéo tôi ra bảo nhỏ: - “Anh lại có chuyện muốn nhờ em”. Đại loại anh bảo mấy hôm nữa anh sẽ đưa Thơm lên Bệnh viện 121 chữa bệnh (là loại bệnh gì đó của phụ nữ) nên nhờ tôi giúp thêm vì anh không ở Bệnh viện liên tục được. Tôi nghe thì biết thế nhưng không hứa hẹn gì vì cũng không biết khi nào anh ta đưa vợ lên.

Khoảng chừng hơn 1 tháng sau, anh Lương tìm gặp tôi ở Phòng Sản xuất Cục Hậu cần. Anh nói đã đưa vợ lên chữa bệnh phụ khoa theo tiêu chuẩn gia đình quân nhân ở Bệnh viện 121. Hiện tại không có ai chăm sóc mà Thơm thì chưa quen thành phố, lại kém tháo vát nên nhờ tôi giúp thêm. Tôi đèo anh Lương ngồi xe đạp đến Bệnh viện 121 gặp Thơm và anh Lương nhờ tôi giúp anh đưa cơm cho vợ anh mấy ngày sau đó cho đến khi bệnh bớt và có thể đi đến chỗ bếp ăn trong Bệnh viện. Thế là tôi - một trai chưa vợ - có được mấy ngày mang cơm cho vợ anh bạn ốm. Mấy anh em trong đơn vị biết thế nói: “Ông Ảnh chăm chỉ đưa cơm cho vợ ốm”.

Sau chuyến đi đầu năm 1983 ấy thì tôi không còn chuyến nào phải đi đến 416 nữa. Về cơ bản tôi nghe nói đơn vị đã có muối sản xuất dùng cho đơn vị chế biến thực phẩm 404 và chuyển muối đi đâu đó cho quân đội. Đại loại là mô hình sản xuất muối của quân đội đã có sản phẩm, tất nhiên lời lãi thì không ai biết. Mỗi lần anh Lương lên Cần Thơ cũng có ghé thăm tôi. Qua các cuộc nói chuyện, tôi được biết là vợ anh sau đó đã được về quê vì ở đơn vị 416 thì nguồn nước ô nhiễm mặn, bệnh phụ nữ chữa không dứt điểm được. Vào cuối 1984 khi sắp ra quân, chúng tôi được cấp quân trang kì 2 sớm. Tôi nhận được quân phục mùa đông và nhiều tư trang mới của quân đội (lần đó quân phục được nâng cấp so với các lần cấp năm trước). Anh Lương thấy chúng tôi được cấp trước (vì ở QK bao giờ cũng ưu tiên hơn cơ sở) nên anh nói cho anh vay trước bộ của tôi vì anh đang cần. Tôi đã ứng cho anh nhận trước. Rồi khi tôi ra quân vào tháng 10, chắc anh vẫn chưa được cấp nên không thấy anh trả phần quân trang ra quân cho tôi. Và tôi với anh Lương cũng không có tin gì về nhau từ khi tôi ra quân đến nay. Nói chung tôi với anh có những kỉ niệm đáng nhớ.

Như vậy, cả 4 lần đi công tác tại 416 tôi đều còn nhớ được một số chi tiết tôi đã ghi chép trên. Nhưng cái nhớ nhất vẫn là cảm giác gió thổi trên mặt khi về lấy cái túi dết của thủ trưởng Ba Kì Vân ở lần đi công tác thứ 2. Tôi cứ nghĩ mãi về cơn gió biển ngược chiều cuối buổi tối hôm ấy, nghĩ mãi để lí giải cho cảm giác gió: có lẽ là tôi chạy chứ không phải đi bình thường nên mới có cảm giác gió to đến chừng ấy.



[1] Từ 1-1-1997, tỉnh Minh Hải được tách thành 2 tỉnh là Cà Mau và Bạc Liêu

[2] Đọc ở https://lehuuanhghichep.blogspot.com/2025/02/chuyen-chung-toi-uoc-ket-nap-ang-ki-1.html

 [3] Theo phong tục địa phương, cái bao tử cá sủ thuộc về người bắt được con cá này. Người ta đồn rằng trong bao tử có thể có những của quý vì loài cá này ăn tạp, có khi có cả cái nhẫn vàng do nuốt bàn tay người chết trên biển (?)

[4] Loài đẻ trứng thường không có độc

[5] Nghe Thắng kể thì Dũng đi uống rượu về khuya bằng ghe máy. Chắc do bị say xỉn nên ngã xuống nước và chết.

1 nhận xét:

  1. Bài này Giáo sư viết dài nhất và cũng nhiều chi tiết nhất tại sao lại có trí nhớ siêu phàm như vậy????

    Trả lờiXóa