Tỉnh
Minh Hải sau này được tách ra thành Cà Mau và Bạc Liêu[1]. Tôi có nhiều chuyến đi
Minh Hải từ 1981-1983, gồm các chuyến đến Nông trường Muối 416 ở Bạc Liêu, các
lần đến Tỉnh đội ở Cà Mau và chuyến đi rừng U Minh hạ.
Các
đồng đội cùng đợt vào được phân công về Minh Hải gồm Lê Tiến Dũng (ngành
kinh tế nông nghiệp ĐH NNII), Trần Nhật Bính (ngành trồng trọt ĐH NNI) và Nguyễn Văn Tuất (ĐH Tài
chính) và một số đồng đội học từ nhiều trường đại học khác được phân về các
NTQĐ trực thuộc QK9. Theo ghi chép của tôi, tỉnh Minh Hải gồm 3 NTQĐ là Khánh
Hà (diện tích 2100ha), Khánh Hải (2780ha) và Đông Hà (2750ha). Tỉnh còn có 9
nông trại, mỗi nông trại 100ha có tên là U Minh, Trần Văn Thời, Thị đội Minh Hải,
Giá Rai, Phú Tân, Hồng Dân, Thới Bình, Cái Nước và Năm Căn. Ở NTQĐ Khánh Hải,
cuối năm 1982, các bạn Nguyễn Văn Nên, Hải (Kì Lừa) đã được Cục Kinh tế điều về
bổ sung nhân sự, nhưng tôi không có dịp nào đến Khánh Hải nên chỉ gặp được các
bạn khi họ có dịp lên Cần Thơ công tác.
a/
Các chuyến đi NTQĐ làm muối phiên hiệu 416
Tôi có tất cả 4 lần đi 416. Chuyến đi cùng Cục phó Trung tá Trần Kì Vân[2] đã ghi chép là chuyến đi thứ 2.
Lần
đầu tiên tôi đến 416 thì Nông trường còn
rất hoang sơ. Đơn vị mới chỉ có 1 anh trung úy tên Lương người Nông Cống Thanh
Hóa phụ trách và vài bộ đội cần vụ. Lúc này đang còn ở giai đoạn khai hoang, xây
dựng cơ bản ruộng muối. Khu Nông trường bộ là một khoảnh đất rộng chừng 1000 m2
được san lấp nằm trên sát đê quai (phòng thủy triều tràn vào khu sản xuất và cư
trú của dân). Đất được máy đào lên từ các ruộng rồi san phẳng, mưa xuống rửa trôi
còn thấy rõ màu dòng chảy nước phèn trên nền sân. Có 2 cái lán lợp dừa nước sát
nhau mé phía biển, còn phía đê là cái sân rộng để trống. Xe Jeep từ đường đến ấp
có thể vào tận cái sân này.
Một
căn lán gọi là nhà công vụ có cái bàn kê trên nền đất nện cao hơn mặt sân chút
ít. Vài cái giường đơn giản kê phía góc. Cái lán thứ 2 có gian đầu hồi là nơi
ngủ của anh Lương, tiếp theo là các gian kho và bếp.
Ngoài
ruộng muối thì tôi thấy người ta dùng máy san vùng sình lầy làm ruộng muối. Có
những máy thuê đắp bờ các vuông muối và máy san nén mặt ruộng. Các ruộng có
rãnh lấy nước biển. Các ô muối được xây dựng cách khu lán trại chừng 500m và một
đường từ bờ đê quai cho xe có thể xuống được khu tập kết muối. Phía ngoài các
vuông muối là mênh mông rừng ngập mặn của những cây mắm. Mắm ở đây mọc khá dày,
khi triều lên ngập gần hết, nhưng triều rút thì thấy cả rừng rất dày đặc chạy
xa tít ra biển. Có cả một hệ sinh thái ăn theo: cá ăn quả mắm, tôm cá, cua ăn sống
theo bên dưới rừng mắm. Những chỗ sình lầy nước lên xuống luôn có hàng trăm con
cá kèo chạy ào ào trên mặt bùn sát mé nước rất sinh động.
Lần
đầu cũng không có gì đáng nói, chỉ là được phân công xuống nắm tình hình chung.
Anh Lương dẫn đi một lúc thì tôi cơ bản biết hết công việc đang diễn ra. Ở chuyến
đi lần đầu tôi chỉ còn vài mẩu chuyện đáng nhớ.
Một
buổi sáng, anh Lương gọi cần vụ ra lấy cá làm thức ăn. Tôi theo ra sân thấy người
dân trong ấp đi bắt cá về đang đứng trên sân doanh trại. Họ bắt được một con cá
sủ rất to và một giỏ lớn cá cua các loại. Họ đặt con cá sủ xuống sân, cá dài
khoảng cỡ 1 m, cái bụng sáng loáng to phình ra. Họ mượn dao mổ bụng lấy cái bao
tử[3] cất đi rồi bảo anh lính cắt
một phần thịt phía bụng (phía bụng thịt mềm, rất béo). Họ bảo cá kèo muốn lấy
bao nhiêu thì lấy nhưng chỉ nên lấy đủ ăn trong ngày. Ăn ngày nào thì lấy đủ ăn
ngày ấy cho ngon. Dân ở đây cho bộ đội cá không thấy tiếc gì cả. Có lẽ do nguồn
cá dễ kiếm và dân ở đây quý bộ đội chăng? Anh Lương bảo cá kèo thì không ai bán
chác gì cả, mà dân không cho thì mình đi bắt một lúc cũng đủ bữa ăn trong ngày.
Cá chạy đầy nhóc ở bãi sình sát bờ biển chỉ cách doanh trại vài trăm mét.
Một
chuyện khác là một tối anh Lương rủ tôi đi nhậu với dân ấp. Có khoảng 6-7 bác
ngồi nhậu trên cái chiếu kê ra bãi cỏ cạnh bờ kênh. Họ thường ngồi nhậu ở đây cả
trưa và tối, có khi từ trưa đến tối luôn. Một cái chảo con đặt trên cái bếp lò
đất nung nấu món canh chua cá để đưa rượu. Kiểu uống rượu một li quay vòng. Tôi
và anh Lương ra thì các bác đang uống rồi. Thế là ngồi vào cùng vui. Anh Lương uống
một lúc thì kêu mệt bỏ nhiều vòng không uống. Tôi thì cứ đến vòng thì uống
nhưng sau cũng oải dần. Có một ông chú ngồi cạnh nói nhỏ: mày cứ nhận li rồi
đưa chú uống cho, đừng chối. Ha ha thế là có người uống giùm. Rượu không nặng lắm
nhưng cứ uống mãi cũng kinh chứ. May mà ông chú uống giùm này lấy tay che kín cái
li nên mọi người mải chuyện không biết. Thế là ông ta coi như được gấp đôi số
rượu trong mỗi vòng uống. Tôi còn rất nhớ cái khuôn mặt nhỏ thó, gầy gò, miệng
thì mém do mất nhiều cái răng nên nói cũng không còn tròn tiếng, nhưng mắt ông
ta thì vui lắm vì được thêm suất uống. Có lẽ ông ta là dân nghiền món nhậu này.
Lần
thứ 2 tôi đi cùng xe với Thủ trưởng
Ba Kì Vân. Khi xe đưa ông về trước thì tôi còn ở lại mấy ngày. Chuyến đi đó còn
có thêm anh Nguyễn Văn Minh và 2 vệ binh bổ sung là Thắng và Dũng. Thắng được gửi
xuống làm nhiệm vụ ghi chép (kiểu kế toán) vì Thắng làm việc cẩn thận và chu
đáo, nói được người khác nghe. Còn Dũng là sinh viên đại học Cần Thơ đi lính
nghĩa vụ nhưng ở Cục kinh tế làm vệ binh thường hay say xỉn, lại là dân Bắc tập
kết. Gia đình Dũng ở Bạc Liêu nên được Cục cho về đây để được gần nhà (nhưng thực
chất là không muốn nhận một anh vệ binh của Cục không nghiêm túc lại thường hay
say xỉn khi làm nhiệm vụ).
Một
tối anh Minh gặp người quen ở ấp nào đó quanh đấy đến doanh trại chơi và hát cải
lương. Anh ấy có dẫn theo mấy em thôn nữ, trong đó có một em to tròn chắc nịch
căng đẫy mọi bộ phận. Em ấy biết hát và hát rất khỏe những bài cải lương dân
dã. Anh Minh nghe chừng thích thú lắm. Anh nói khi nào em lên Cần Thơ thì anh sẽ
dẫn đi giới thiệu với người quen ở nhà văn hóa nào đó thử giọng để có cơ hội
tuyển dụng, ở đây người đẹp hát hay thì phí quá (!). Tôi không biết hát và cũng
không rành nghe hát nên đi ngủ sớm còn đội hát về khi nào tôi cũng không rõ.
Nói
chung chuyến đi của Thủ trưởng Kì Vân như là những quyết định để các đầu tư về
sau của 416 được nhiều hơn cho việc chuẩn bị sản xuất muối.
Lần
thứ 3 tôi đến 416 sau đấy mấy tháng.
Lúc này có 2 điểm mới: Thiếu úy Giang Thành Phong được cử về làm phó cho anh
Lương (có mang theo cả vợ mới cưới). Còn Trung úy Lương mới về quê cưới vợ và cũng
mang vợ vào. Cả 2 vị trưởng phó đã cất được 2 căn nhà lá phía sau doanh trại. Mỗi
căn chừng hơn chục m2 mái lá, liếp lá và nền đất, nhưng cũng gọi là
có cái nhà riêng.
Hôm
đó tôi đến đã là chiều tối, mọi người đã ăn xong. Cần vụ đưa tôi sang nhà anh
Phong. Anh Phong và vợ tiếp tôi, nấu cơm mời tôi ăn trong căn nhà riêng đôi vợ
chồng mới cưới rất tình cảm. Tôi ăn một mình vì mọi người đã ăn chiều rồi. Vợ
chồng Phong ra nói chuyện vui vẻ. Phong người gốc Hoa, anh đẹp trai, nói năng
giỏi, rất hợp với ông Ba Kì Vân nên được ông cử về đây như một sự tin cậy của
ông để phát triển đơn vị. Mà hình như anh Phong cũng là dân Bạc Liêu nữa (cái
này tôi không chắc lắm). Phong còn có tài văn nghệ đàn ca sáo nhị đều giỏi, cô
vợ cũng người Hoa khá xinh và kín đáo. Lần ấy anh Lương đi công tác vắng nên chỉ
có cô vợ mới cưới ở nhà một mình. Khi anh Phong chỉ tôi nhà mới cất của anh
Lương bên cạnh, tôi thấy ngôi nhà tối thui, chắc cô vợ đã ngủ sớm.
Khi
ăn xong tôi trở lên nhà công vụ đã thấy Thắng chuẩn bị cho tôi chỗ ngủ chu đáo.
Chuyến này tôi ở đấy mấy ngày, được ra xem kĩ thuật lấy nước vào vuông muối, vuông
muối phơi dưới nắng cho nước bốc hơi nên mặn dần và cứ thế các ruộng muối phía
trong được bơm nước có độ mặn rất cao rồi khô thành muối. Người ta lấy dụng cụ
thu muối dồn về thành đống rồi cho vào cần xé vác lên bờ thành các đống. Cách làm
này thì muối không sạch như ruộng muối ở ngoài Bắc.
Chuyến
đi ấy tôi còn được trải nghiệm một công việc rất thú vị, đó là đi “xổ tôm” ngoài
rừng mắm. Người ta đắp một cái đập nhỏ để bao 1 khu đất gần bờ trong rừng mắm
ngập nước và đặt ở đó một cái bẫy tôm cá. Khi nước triều rút, lũ cá tôm theo nước
ra gặp bờ bao nên dồn hết vào cái chỗ có cái lưới và cuối cùng chui hết vào một
cái giỏ lớn. Giỏ đầy tôm cá các loại, phải khiêng lên đổ ra lòng cái ghe nhỏ
kéo theo. Tôi thấy rất nhiều tôm, cá nhỏ, có cả cua, mấy con rắn nước. Một người
dân bảo: hôm nay có con đẻn béo núc, lát nữa ta có bữa nhậu ngon đây. Thế là mọi
người chọn lấy mấy thứ ngon nhất cho bữa nhậu ngãy ngoài bờ đập.
Anh
dân ấp bắt con rắn nước ra cầm trên tay. Con rắn to nhưng ngắn, béo căng màu các
sọc ngăm đen. Anh bảo đó là loài đẻn biển có trứng[4] rất bổ. Rồi anh ta lấy tay
vỗ vào da, con rắn vẫn sống nhưng rách da lưng lộ lớp thịt trắng bóng. Anh nói:
mùa này đẻn sinh sản nên rất béo, bụng nó có trứng rất ngon, còn thịt nó thì số
dzach, ngọt và thơm rất đáng đưa mồi nhậu. Tôi được thưởng thức món lạ tươi
ngon bậc nhất – chắc chỉ có người dân mới được tận hưởng của lạ này, tất nhiên
rồi. Cái ngon nhất lại hiếm có thế mấy khi mua được ở chợ.
![]() |
Ảnh minh họa con đẻn biển có trứng |
Thu hoạch của tôi trong chuyến đi này là được biết thêm cách làm muối của người Nam bộ và chuyện “xổ tôm” ngoài rừng mắm ven biển của người dân xứ này.
Lần
thứ 4 tôi đến với 416 thì đã có nhiều
muối được sản xuất ở đây. Lúc này là khoảng đầu năm 1983 vì chúng tôi đã chuyển
về Cục Hậu cần. Tôi đến 416 thấy người ta chở muối lên các chỗ đất phẳng được lát
bằng lá dừa nước, đổ muối lên thành những ụ lớn, lấy lá dừa nước che lại thành
những cái đụn muối ngay bờ các vuông muối để chờ mang đi tiêu thụ. Cũng toàn
chuyện người dân làm thuê cho bộ đội theo các hợp đồng gì đó giữa anh Lương với
dân nên tôi không quan tâm nhiều. Lính làm kinh tế thì cũng chỉ là trả công
theo sản phẩm hoặc theo công nhật, ở đâu cũng thế.
Chuyến
đi lần này thì có thêm mấy chuyện: biết tin Dũng đã mất do tai nạn[5] lần đi ra chợ uống rượu về.
Còn anh Lương lúc này đã lên thượng úy và anh Phong cũng như bọn tôi cũng vừa lên
trung úy.
Lần
này anh Lương ở nhà nên tôi có dịp vào thăm nhà anh: một cái lán nhỏ cũng như của
Giang Thành Phong tôi đã vào lần trước nhưng sao tôi cảm thấy không được sáng sủa
như nhà của Phong. Bên ngoài có mỗi chiếc giường một và một cái bàn nhỏ xíu uống
nước, còn bên trong thì chắc phòng ngủ và sau nữa là bếp của vợ chồng. Cô vợ
tên Thơm người Nông Cống còn trẻ lắm, khoảng 20 tuổi. Anh Lương về phép cưới cô
Thơm cùng làng rồi đưa vào đây. Lương với tôi coi như đồng hương tỉnh và quê
tôi cách quê anh chừng 50km gì đó. Cô vợ trẻ nói toàn tiếng quê Thanh Hóa, lại
ngây thơ (kiểu ngây ngô một chút). Chắc Thơm lớn lên chưa có dịp được đi xa quê
bao giờ. Tôi nghĩ cô ta cũng chỉ mới học xong cấp 3 rồi cưới chứ chưa đi học
ngành nghề gì.
Sáng
hôm sau đó Lương nói với tôi ở lán công vụ: - “Anh phải lên quân khu công tác mấy
ngày. Anh nhờ em đến ngủ ở nhà anh để cho Thơm đỡ sợ nhé. Thơm ở một mình cứ lo
sợ không ngủ được”. Ôi thôi, làm sao bây giờ.
Bỗng
đoàng một cái, anh Lương và mọi người lao ra sân. Thắng đang nghịch khẩu súng K57
của anh Lương, tưởng súng không có đạn nên đã bóp cò, may mà súng chĩa lên trời.
Lương hoa mắt trách Thắng rồi cất súng đi. Thì ra Lương nhờ Thắng chuẩn bị đồ
đi công tác lại sơ ý để khẩu K57 ra nên Thắng nghịch súng rất nguy hiểm. Thật
là đáng rút kinh nghiệm.
Mấy
ngày ấy cứ tối là tôi về ngủ ở cái phòng khách của nhà Lương. Thơm chỉ ra chào
rồi vào buồng ngủ. Lương thì đi công tác mấy ngày sau mới về. Tôi thì chờ Lương
về để tôi về Cần Thơ.
Trước
khi tôi về Cần Thơ, Lương kéo tôi ra bảo nhỏ: - “Anh lại có chuyện muốn nhờ em”.
Đại loại anh bảo mấy hôm nữa anh sẽ đưa Thơm lên Bệnh viện 121 chữa bệnh (là loại
bệnh gì đó của phụ nữ) nên nhờ tôi giúp thêm vì anh không ở Bệnh viện liên tục
được. Tôi nghe thì biết thế nhưng không hứa hẹn gì vì cũng không biết khi nào
anh ta đưa vợ lên.
Khoảng
chừng hơn 1 tháng sau, anh Lương tìm gặp tôi ở Phòng Sản xuất Cục Hậu cần. Anh
nói đã đưa vợ lên chữa bệnh phụ khoa theo tiêu chuẩn gia đình quân nhân ở Bệnh
viện 121. Hiện tại không có ai chăm sóc mà Thơm thì chưa quen thành phố, lại
kém tháo vát nên nhờ tôi giúp thêm. Tôi đèo anh Lương ngồi xe đạp đến Bệnh viện
121 gặp Thơm và anh Lương nhờ tôi giúp anh đưa cơm cho vợ anh mấy ngày sau đó
cho đến khi bệnh bớt và có thể đi đến chỗ bếp ăn trong Bệnh viện. Thế là tôi -
một trai chưa vợ - có được mấy ngày mang cơm cho vợ anh bạn ốm. Mấy anh em trong
đơn vị biết thế nói: “Ông Ảnh chăm chỉ đưa cơm cho vợ ốm”.
Sau
chuyến đi đầu năm 1983 ấy thì tôi không còn chuyến nào phải đi đến 416 nữa. Về
cơ bản tôi nghe nói đơn vị đã có muối sản xuất dùng cho đơn vị chế biến thực phẩm
404 và chuyển muối đi đâu đó cho quân đội. Đại loại là mô hình sản xuất muối của
quân đội đã có sản phẩm, tất nhiên lời lãi thì không ai biết. Mỗi lần anh Lương
lên Cần Thơ cũng có ghé thăm tôi. Qua các cuộc nói chuyện, tôi được biết là vợ
anh sau đó đã được về quê vì ở đơn vị 416 thì nguồn nước ô nhiễm mặn, bệnh phụ
nữ chữa không dứt điểm được. Vào cuối 1984 khi sắp ra quân, chúng tôi được cấp
quân trang kì 2 sớm. Tôi nhận được quân phục mùa đông và nhiều tư trang mới của
quân đội (lần đó quân phục được nâng cấp so với các lần cấp năm trước). Anh
Lương thấy chúng tôi được cấp trước (vì ở QK bao giờ cũng ưu tiên hơn cơ sở)
nên anh nói cho anh vay trước bộ của tôi vì anh đang cần. Tôi đã ứng cho anh nhận
trước. Rồi khi tôi ra quân vào tháng 10, chắc anh vẫn chưa được cấp nên không
thấy anh trả phần quân trang ra quân cho tôi. Và tôi với anh Lương cũng không
có tin gì về nhau từ khi tôi ra quân đến nay. Nói chung tôi với anh có những kỉ
niệm đáng nhớ.
Như
vậy, cả 4 lần đi công tác tại 416 tôi đều còn nhớ được một số chi tiết tôi đã
ghi chép trên. Nhưng cái nhớ nhất vẫn là cảm giác gió thổi trên mặt khi về
lấy cái túi dết của thủ trưởng Ba Kì Vân ở lần đi công tác thứ 2. Tôi cứ nghĩ
mãi về cơn gió biển ngược chiều cuối buổi tối hôm ấy, nghĩ mãi để lí giải cho cảm
giác gió: có lẽ là tôi chạy chứ không phải đi bình thường nên mới có cảm
giác gió to đến chừng ấy.
[1]
Từ 1-1-1997, tỉnh Minh Hải được tách thành 2 tỉnh
là Cà Mau và Bạc Liêu
[2] Đọc ở https://lehuuanhghichep.blogspot.com/2025/02/chuyen-chung-toi-uoc-ket-nap-ang-ki-1.html
[4] Loài đẻ trứng thường không có độc
[5] Nghe Thắng kể thì Dũng đi uống rượu về khuya bằng ghe
máy. Chắc do bị say xỉn nên ngã xuống nước và chết.
Bài này Giáo sư viết dài nhất và cũng nhiều chi tiết nhất tại sao lại có trí nhớ siêu phàm như vậy????
Trả lờiXóa