Thứ Ba, tháng 10 29, 2024

Cục Kinh tế QK9: Tổ chức và nhân sự

Cục Kinh tế Quân khu 9 và đơn vị mới thành lập. Chúng tôi đến (ngày 13-4-1981) thuộc nhóm cán bộ sĩ quan đến đợt 1, sau đó ít lâu thì có thêm các sĩ quân và hạ sĩ quan bổ sung đến từ ĐH Cần Thơ và các ĐH khác.

Thủ trưởng Cục

Cục phó Phụ trách Chính trị Cục là Thượng tá Nguyễn Văn Bảy (Bảy Sa), Cục phó tham mưu là Trung tá Trần Kì Vân (Ba Kì Vân), Cục phó Trung tá Nguyễn Nhật Quang (Hai Nhật Quang). Khoảng cuối 1981 thì mới có Cục trưởng là Đại tá Nguyễn Thanh Vân (chuyển từ Quân khu 4 vào). 

Phòng Tham mưu – Kế hoạch

Trưởng phòng: Thiếu tá Nguyễn Hữu Chước (Hai Chước), phó phòng: Đại úy Bùi Phước.

Các sĩ quan: Bính, Giang, Ảnh (ĐH Nông nghiệp I), sau này có Chuyên (ĐH KTQD)

Hạ sĩ quan: Thoải (ĐH KTQD)

Các nhân viên quốc phòng: Đến từ ĐH Cần Thơ: Nguyễn Thanh Tâm, Nguyễn Hồng Ngọc, Nguyễn Văn Trung, ĐH KTQD: Luận.

Phòng Nông nghiệp

Phụ trách: anh Bảy Sinh

Các sĩ quan: Nhóm ĐH Nông nghiệp I: Châu, Thiện, Lý, Thế, Hải (Kì Lừa), Hải (con), Nguyễn Văn Nên, Tuấn (ghe), Khanh. Sau này có thêm Lẫm (ĐH Nông nghiệp III), Giang Thành Phong, Nguyễn Thành Long (ĐH Cần Thơ).

Hạ sĩ quan: Sơn (ĐH Cần Thơ) và 1 anh bạn nữa chưa nhớ tên cũng từ ĐH Cần Thơ

Nhân viên quốc phòng: Các anh đến từ ĐH Cần Thơ: Nguyễn Văn Minh, anh Giản (đánh bóng chuyền giỏi), anh Hà.

Phòng Lao động tiền lương:

Trưởng phòng: Đại úy Tám Khai

Sĩ quan: Bình (Hũ) (ĐH KTQD)

Hạ sĩ quan: Thịnh (ĐH KTQD)

Phòng Xây dựng cơ bản

Trưởng phòng: Thiếu tá Quân (Giang nhắc là Lâm Hồng Quân)

Phó phòng: Đại úy Năm Nhân

Sĩ quan: Thượng úy Nguyễn Thế Mạnh, Trung úy Ngưỡng từ Đoàn 622 chuyển về khoảng thời gian cuối 1981.

Giữa 1982 có Trung tá Sáu Mẫn chuyển từ Trường Quân chính QK9 về chờ hưu.

Hạ sĩ quan: Lê Văn Đúp (ĐH Cần Thơ), Ngô Mạnh Hùng (học Liên Xô về), Thủy (học Liên Xô về).

Nhân viên quốc phòng: anh Hòa (ĐH Thủy lợi).

Ban Công tác Chính trị

Trưởng phòng: Đại úy Tri (hay Chi? - Giang nhắc tên)

Sau có thêm phó phòng: Thượng úy Lượng

Phòng Tài vụ

Trưởng phòng: Trung tá Bảy Như

Phó phòng: Thượng úy Ba Đán

Sĩ quan: Các Trung úy Hạnh, Thực, các Thiếu úy: Khởi, Hồng, Thanh (Thủ quỹ), Thơ… đều học từ Tài chính quân đội, Đào (ĐH Nông nghiệp I)

Nhân viên quốc phòng: Hai Tài

Phòng Hành chính – Quản trị - Vệ binh

Thượng úy: … Thị Thủy (quân nhu)

Trung úy Nguyễn Văn Đua (giữ con dấu)

Thủ quỹ đơn vị: Chị Kim (là vợ Nguyễn Văn Minh – Phòng Nông nghiệp)

Các nhân viên: chị Kim Đẹp, chị Lệ đánh máy, một anh phụ trách thợ điện (không nhớ tên)

Lái xe: Thiếu úy Tuấn, Chuẩn úy: Cứng

Cần vụ cho Cục trưởng Ngô Thanh Vân: thượng sĩ Đĩnh

Vệ binh do Trung sĩ Hải phụ trách một nhóm: Biên, Thắng, Hà, Dũng (đi lính khi đang là sinh viên ĐH Cần Thơ)…

Các chị nhà bếp: (có một chị có cháu trai tên Hải nhỏ con rất lanh lợi, biết hết mọi chuyện trong Cục).

Đến cuối 1981 đầu 1982 có nhiều anh em chuyển đi các đơn vị khác. Nhóm ĐH Nông nghiệp I gồm Tuấn (ghe) đi Nông trường Cờ Đỏ, Nguyễn Văn Nên, Lý, Khanh đi Minh Hải, Châu đi Đồng Tháp, Hải (Kì Lừa) đi Bến Tre… Giang Thành Phong đi NT Muối 406 (Bạc Liêu), Nguyễn Thành Long đi Ô Môn… Vệ binh: Thắng, Dũng[1] đi NT Muối 406… Hầu hết các anh chị chuyển đi tôi đã có dịp gặp lại ở đơn vị mới. Có điều kiện tôi sẽ ghi chép thêm những kỉ niệm khó quên với nhiều lần đi công tác về các đơn vị trong Cục, thực chất là những trải nghiệm rất quý giá trong cuộc đời tôi.

Tôi tiện nhắc ở đây tên các anh chị theo các phòng, ban để những câu chuyện về sau có liên quan không cần nêu lại. Nhìn chung, ngoài các thủ trưởng Cục và Phòng, Ban là các sĩ quan quân đội lâu năm, còn lại là các anh chị tốt nghiệp ĐH từ Bắc vào và từ ĐH Cần Thơ ở ngạch quân nhân chính quy hay nhân viên quốc phòng. Rõ ràng là đơn vị Cục Kinh tế mang dấu ấn của những cán bộ kĩ thuật có chuyên môn được đào tạo hẳn hoi từ các trường ĐH chính quy khi đó, là tiềm lực không thể phủ nhận cho một đơn vị được tổ chức có ý đồ liên quan đến phát triển kinh tế quân đội. Tuy nhiên, chỉ chưa đầy 2 năm sau thì Cục Kinh tế Quân khu 9 giải tán. Mãi đến 2023 qua câu chuyện với anh Nguyễn Kim Quất (sĩ quan từ Tổng cục Kinh tế Bộ Quốc phòng) tôi mới hiểu ý đồ xây dựng tổ chức Tổng cục Kinh tế có tầm cỡ từ quốc phòng toàn dân, toàn diện trong bối cảnh sau cuộc chiến tranh với Trung Quốc tháng 2-1979 và cuộc chiến ở Campuchia.  

Nhìn lại cuộc đời, bản thân tôi nhận thấy đây là những năm tháng vô tư, sung sướng nhất về nhiều mặt, nhưng cũng là những trăn trở nhất giữa kì vọng và thất vọng về quan niệm giữa trí thức và người lính, giữa trí thức Nam và trí thức Bắc, giữa cấp dưới và cấp trên… Đại loại có những vấn đề sau:

1/ Về sinh hoạt: chúng tôi rất đầy đủ về ăn uống, ngủ nghỉ, vui chơi... Là binh nghiệp nhưng vẫn còn được sử dụng như các công việc chuyên môn ít ỏi. Thời gian này sống vô tư, nhiều nhiệt huyết, được đọc sách, được quen với nhiều bạn mới ở phía Nam.

2/ Được trải nghiệm rất thú vị với hào sảng phương Nam: cuộc sống, con người ở vùng quê sông nước, miệt vườn cây trái. Đây là thời gian chúng tôi có các chuyến công tác nhiều kỉ niệm…

3/ Những dao động ban đầu của trí thức (trước gọi là trí thức tiểu tư sản): không được phân công việc làm ổn định, bế tắc trước lối sống của một số đồng đội, không thấy sự phát triển tương lai…

4/ Một số vấn đề giữa trí thức Nam và trí thức Bắc: anh em trí thức Nam muốn ẩn giấu tri thức tiếp cận từ tiếng Anh và vừa ngưỡng mộ vừa nghi hoặc tri thức của tiếng Nga.

5/ Những vấn đề va chạm cuộc sống: cấp dưới – cấp trên, gia trưởng quân sự, trình độ lãnh đạo, quản lý, những nghịch cảnh phải trái…

6/ Được lãnh đạo (hẹp hòi) cho nếm những thử thách ban đầu của người lính.

Nếu có điều kiện tôi dự định sẽ viết rất nhiều câu chuyện (đã in sâu trong kí ức) những năm tháng này với niềm tự hào không hổ thẹn về cuộc đời của chúng tôi. Vào những năm 2000, trong một bữa vui họp mặt, một ông giáo già hơn tôi 30 tuổi hỏi tôi: “những năm đi bộ đội đã có được những gì”? Khi đó tôi trả lời ngay: “không có được gì đáng kể mang về nhưng những gì tôi có được hôm nay đều từ những năm tháng đó mà ra”! Câu trả lời chỉ là bật ra trên bàn ăn rộn rã, nhưng sau suy nghĩ lại thấy đúng quá, đúng mãi cho đến tận hôm nay…

 

 



[1] Dũng mất khi ở đơn vị 406 do tại nạn say rượu khi đi ghe về đơn vị.

Thứ Năm, tháng 10 24, 2024

Nhà khách T82 và nhận quyết định công tác

 

Đến T82 mới thấy số kĩ sư- sĩ quan từ ĐH Nông nghiệp I khá đông. Tốt nghiệp ngành Kinh tế nông nghiệp có Bính-Đào-Giang và Ảnh; tốt nghiệp ngành Trồng trọt có Thiện, Châu, Thế, Nên, Hải (Kì Lừa), Hải (con), Học, Tuấn (Ghe), Lý, Khoa (ghẻ), Khanh[1]; Có nhiều bác sĩ-sĩ quan như Tiệc, Châu, Đoan, Phương, Khoa,… từ Đại học Y Hà Nội. Thế là lại thành một nhóm “Sơn Tây mới” tụ lại ngồi chờ công tác.

Mấy ngày sau không thấy thông tin gì nên bộ đội chán nản đi dạo quanh từ gần đến xa tùy theo sức đi bộ của từng nhóm. Nhóm chúng tôi chủ yếu đi ngắm cảnh nông thôn sông rạch quanh khu Trà Nóc, Bình Thủy. Khoảng vài ngày sau, bạn Tiệc[2] nói nhỏ với chúng tôi muốn về nhà vì ở đây không biết khi nào mới có quyết định công tác. Chúng tôi thống nhất với ý định bạn bí mật đi, có điểm danh hay thông tin gì đó thì điện về báo cho bạn.

Tại trạm khách T82, chúng tôi vẫn chờ quyết định phân công công tác nên ngoài ăn 3 buổi, các nhóm ngồi đánh bài, chơi cờ, tán gẫu trong một lán lợp tôn rộng cả trăm m2 kê giường theo dãy mà không có cửa, chỉ có mấy liếp tôn nên gió lộng ngày đêm. Ban ngày khá nóng nhưng đêm thì gió mát. Rồi bắt đầu trò đi chợ mua các thứ về mượn bếp nấu ăn thêm. Có hôm Bính-Đào-Giang-Ảnh đi bộ xuống chợ Bình Thủy chơi và mua thịt (buộc vào cái dây lạt) đi bộ xách về với mấy quả cà chua đút túi quần để mượn nồi nấu ăn thêm cải thiện. Hình ảnh này chắc kì lắm với mọi người trên đường khi thấy 4 chàng người Bắc đi chợ về!!!

Các bạn tốt nghiệp ĐH Y Hà Nội được quyết định công tác trước, một số người đi Campuchia. Đoan, Châu về Bệnh viện 121, Phương về Trường y tế Trà Nóc. Các bạn tốt nghiệp ĐH Bách khoa về 404, các bạn tốt nghiệp ĐH Tổng hợp về Cục Chính trị… Nhóm kĩ sư-sĩ quan nông nghiệp nằm ‘khàn’ lâu nhất.

Đến T82 từ 23-3 cho đến 9-4 chúng tôi mới được nhận quyết định công tác (ngồi chơi gần 20 ngày). Quyết định của Tư lệnh Quân khu 9 kí ngày 4-4-1981 cho từng cá nhân. Tôi nhận được số QĐ số 262/QĐ ghi rõ điều đồng chí Lê Hữu Ảnh, Thiếu úy Đại học kinh tế nông nghiệp về Cục Kinh tế nông nghiệp Quân khu 9[3] nhận công tác vào ngày 13-4. Chỉ riêng bạn Học về Cục Hậu cần, bạn Khoa về Tỉnh đội An Giang, còn lại nhóm kĩ sư-sĩ quan nông nghiệp đều về Cục Kinh tế nông nghiệp.


Ngày 13-4-1981, chúng tôi đến Cục Kinh tế tại Phường Cái Khế, ngay gần bắc Cần Thơ. Đây là căn cứ trước đây nghe nói của đơn vị Công binh Vùng 4 chiến thuật và trước nữa là nơi ở của tướng Năm Lửa[4] trong thời lực lượng vũ trang Hòa Hảo. Cục Kinh tế Quân khu là đơn vị mới thành lập trong Quân Khu 9 (Bộ Quốc phòng có Tổng cục Kinh tế).

Tại Cục Kinh tế, Bính – Giang - Ảnh được phân về Phòng Tham mưu – Kế hoạch, các bạn tốt nghiệp ngành trồng trọt như Châu, Lý, Thế, Nguyễn Văn Nên, Tuấn (ghe), Thiện, Hải (Kì Lừa), Hải (con) về Phòng Nông nghiệp. Đào về Phòng tài vụ. Sau này có thêm nhiều kĩ sư-sĩ quan và kĩ sư-lính bổ sung hoặc từ miền Bắc vào sau hoặc từ Đại học Cần Thơ (tôi sẽ nói sau). Lúc này duyên phận lại để Bính – Giang - Ảnh ở cùng đơn vị Phòng Tham mưu – Kế hoạch, được phân ngủ chung 1 phòng (3 giường) trong thời cuộc mới: lính Cục kinh tế Quân khu 9.

Về việc phân công cũng có vài chi tiết đáng nói. Chúng tôi được kê khai điền vào một mẫu lí lịch trích ngang ngắn in sẵn trên trang giấy trong đó có mục trường và chuyên ngành tốt nghiệp đại học. Chúng tôi nghĩ hồ sơ cán bộ chuyển vào chắc đã đủ nên khai nghiêm túc. Sau này có người nói là bạn Học đã khai thêm cái mở ngoặc sau ngành Trồng trọt là bảo quản chế biến nên được đưa về Quân nhu (liên quan đến bảo quản lương thực chăng?) còn Đào thì anh em đồn rằng cũng có mở ngoặc sau chữ Kinh tế nông nghiệp là tài vụ nên được phân về Phòng Tài vụ. Chuyện nay hư thực không rõ nhưng rất có thể tư duy thời cuộc đã tạo ra sự tinh khôn nhất định.

 



[1] Khanh có dịp tôi đã nói trên tàu vào Nam; Khoa có tên gọi kèm là ghẻ từ hồi còn ở trường tôi không rõ gốc câu chuyện. Hải Kì Lừa là Hải quê Lạng Sơn, Hải con quê Nam Định người nhỏ bé; Tuấn Ghe là được gọi theo nghĩa Ghê-rôi (tiếng Nga: Герой là anh hùng) vì Tuấn luôn thể hiện hành động rất dũng cảm kiểu co người lao vào đổ cả đống gạch xếp bên đường… Tôi không nhớ chính xác họ của nhiều người, chưa có dịp tra lại. Bạn Nguyễn Văn Nên trước khi mất là Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp Ninh Bình tôi có nhiều lần gặp sau này.

[2] Tiệc là người chia tay vợ ở ga Đồng Hới tôi đã nói trong nội dung III

[3] Tôi nghĩ có một số nhầm lẫn và không rõ trong quyết định. Đại học Kinh tế nông nghiệp phải hiểu đúng là tốt nghiệp ngành Kinh tế nông nghiệp. Cục Kinh tế chứ không phải Cục Kinh tế nông nghiệp. Các chữ viết thêm màu xanh trong quyết định về tên ngành chắc có sự bổ sung so với trích ngang, nhưng không chính xác.  

[4] Trần Văn Soái (1889-1961) tự Năm Lửa, xuất thân là dân lao động bến xe, sau này trở thành Trung tướng của Lực lượng Vũ trang Giáo phái Hòa Hảo hoạt động chống Lực lượng Việt Minh vào những năm cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950 của thế kỷ trước. Năm Lửa đặt bản doanh tại Cần Thơ chiếm vùng Cần Thơ, Vĩnh LongSa Đéc

https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n_V%C4%83n_So%C3%A1i

 

Chủ Nhật, tháng 10 13, 2024

Chuyện con chó ngáp

 

Một hôm, Bác ngồi trông cháu mệt quá nên ngáp dài một cái, cái ngáp vừa mệt vừa buồn ngủ nên bật ra tiếng kêu á, ái,... áiip. Nghe thế Téng nói: "Bác ngáp giống con chó Bi nhà cháu".

Chỉ có đứa trẻ chưa đầy 3 tuổi mới có sự liên hệ với tư duy đơn giản, chính xác thế. Một sự liên hệ không câu nệ bởi bất cứ quan điểm hay lối nhìn của ai, không lệ thuộc vào đánh giá của người khác.

Khi lớn lên, đi học và sống cùng mọi người, mọi đứa trẻ đều lớn lên trong sự quản lý và đánh giá của người khác nên luôn bị sống cho người khác. Thật tiếc các ý nghĩ giản dị, ngây thơ và đầy triết lý như khi so sánh cái ngáp đó đã không bao giờ còn nữa...

(Viết 5-3-2023 nhân chuẩn bị giỗ lần 2 cho Bác Lý)

Chuyện ngày 8-3

 

Bố Tỏn vừa đọc xong cuốn "Ba người Thầy vĩ đại" của Robin Sharma mới biết cả 3 thầy đều dạy phải chống nỗi sợ, đương đầu với nỗi sợ và coi nỗi sợ là cơ hội để mỗi người tạo ra những giá trị cho mình.


Nhà ta có 3 phụ nữ không sợ:

1/ Bà mẹ Tủng không sợ "mổ bụng bắt con" để lôi ra 2 đứa con không biết sợ. Nay bà ấy sát tuổi 60 vẫn không sợ rumba, yoga,... để tập hàng ngày. Không biết bơi mà tự học bơi, quan trọng hơn là lại dạy được mấy học trò, kể cả trò lớn tuổi biết bơi !!!

2/ Thảo Tâm (Bé Tủn) không sợ nước Mỹ, đến với nhà người ta ở để đi học khi mới chỉ cao bằng cái vali đẩy vào sân bay. Khi bé đi học bị chó đuổi cắn chảy máu chân, nay lớn không sợ cả lũ chó để trong nhà phải có một chú cho vui nhà. Nhưng Tủn thì không sợ toán vì biết làm toán từ khi chưa biết nói. Bằng chứng là khi bố Tỏn hỏi: 2 mũ mấy thì = 8, con nói 3 (23=8); bố hỏi: căn bậc 3 của 27 là mấy, con nói 3; bố hỏi kể cả bà thì nhà ta có mấy phụ nữ: con nói 3; khi hỏi nhiều quá thì con nói 3, 3, 3, 3...).

3/ Cũng như chị, Bảo Hiền (Téng) cũng sớm đến nhà người ta ở London để ăn ở và đi học. Téng từ bé sợ toán. Khi bố Tỏn đố: 1 con tàu vượt đại dương hết 7 ngày, vậy 7 con tàu vượt đại dương hết mấy ngày? Téng kêu: bí ! Khi đi học thì giỏi văn, luôn được cô khen. Khi lớn hơn thì học toán và nay thì lại dùng toán cho công việc hàng ngày. Rõ ràng là đã không còn sợ toán!

Chỉ còn mình bố cái gì cũng sợ !!! Người hay sợ chúc các phụ nữ không biết sợ nhà ta vui tươi hạnh phúc nhé.

(Viết nhân 8-3-2023)

Thứ Bảy, tháng 10 12, 2024

Các bé học ghép vần

 

Cả Tủn và Téng đều đọc thông thạo trước khi vào lớp 1 bằng phương pháp học được bố gọi là "gợi ý" rất độc đáo. Hàng ngày, mỗi khi có dịp là bố mẹ lại gợi ý để các con vào năm thứ 2-3 của mẫu giáo biết cách ghép vần. Ban đầu là ghép nguyên âm với các phụ âm bất kỳ như nguyên âm A được ghép bờ-a-ba, cờ-a-ca, tờ-a-ta... như thế bé đã tự học được quy tắc "quen miệng" về phụ âm và các âm có thể ghép được với nguyên âm nào đó. Các từ thường là những từ gần gũi với quan sát của các bé. Từ đó, chính các bé đã học được cách ghép vần mà trong đó chủ yếu là tự phát triển thành các từ mà bé định học vần. Chỉ không đầy 3 tuần, phương pháp trên về cơ bản đã giúp bé chủ động học được phát âm, ghép vần, nhận mặt chữ và có thể nói như bố Tỏn đánh giá: cách này không quá 3 tuần, mọi trẻ em lớp mẫu giáo đều có thể học đọc và ghép vần thành thạo.

Chuyện của Téng phát sinh lúc này như sau: Téng ghép nhanh các vần và vì thế đã tự học rất nhanh. Tuy nhiên những ngày đầu, khi gặp những từ chưa chắc chắn, Téng thường hỏi bố Tỏn để bố sửa và giúp đỡ. Bố bảo Téng là khi nào bí thì nói để bố giúp. Téng lấy sách ra và tự đọc, tuy nhiên khi gặp một số từ không biết thì Téng lại gọi: Bố ơi, bí... Nhưng mỗi khi Téng đọc các sách có nội dung khó thì việc bí sẽ thường xuyên hơn nên mỗi lần đọc là "bố ơi, bí..." có tần suất nhiều hơn. Khi nghe "bí, bí'..." là bố lại được dịp nhắc và trêu Téng. Việc kêu bí diễn ra chừng vài ngày, nhưng là sự kiện đáng nhớ vì Téng bi ba bi bô chạy gặp bố còn miệng thì hô vang bí, bí,... Đôi khi, đi WC cũng lẩm nhẩm đọc và cũng kêu bí...

Còn Tủn khi bé thì cũng vậy, nhưng lại có chuyện buồn cười về đánh dấu. Tủn ghép vần bao giờ cũng nhớ đến dấu. Khi ghép vần từ cá thì Tủn cũng cờ-a-ca-sắc-cá, nặng-cạ, hỏi-cả... Đây cũng là cách học phát triển từ rất nhanh, nhưng cũng gặp khó khăn đối với những từ không dấu. Ví dụ từ ca thì Tủn ghép vần là cờ-a-ca và nếu thêm một dấu (chẳng hạn sắc-cá hay nặng-cạ) nên không thể thành ca được. Vì thế bố gợi ý là Tủn cần dừng lại mỗi khi cần. Thế là Tủn ghép vần ca thành "cờ-a-ca-dừng-lại". Dừng lại đã trở thành một đuôi để Tủn tạo ra các từ không dấu. Tủn làm cho mọi người cười rất thoải mái mất mấy ngày mới bỏ được cái đuôi "dừng-lại" đó.

Thật là cách học độc đáo tạo nên nhiều giai thoại làm nên những xêri... cười cho cả nhà.

Đến Cần Thơ


Sáng 23-3-1981, chúng tôi ra bến xe miền Tây đi Cần Thơ. Đoàn đi Quân khu 9 khá đông, lại có nhiều anh em cùng trường đại học nên trên xe dễ bắt chuyện. Tôi thấy vùng đất lạ thì chỉ thích ngắm nghía. Xe chạy ra khỏi thành phố là thấy ngay những cánh đồng rộng lớn xen lẫn những khu dân cư xanh mướt cây cối miệt vườn.

Đến bắc[1] Mĩ Thuận, mọi người xuống xe đi bộ lên phà. Người bán hàng nhao nhao rao bán đồ ăn, quà bánh, hoa quả. Rất nhiều loại hoa quả được cắt gọt sẵn chọc vào que hay bọc trong bao nilon cùng vô số loại bánh gói lá chuối, lá dừa tôi chưa từng thấy ở miền Bắc. Tôi bỗng cảm thấy như đang ở nước khác vì nghe không được mấy tiếng rao, tiếng trao đổi, mặc cả của người bán người mua. Giọng Nam bộ lần đầu tiếp xúc trực tiếp quả thật chúng tôi chưa thể thẩm kịp âm điệu của người dân vùng này. Tôi hơi hoang mang vì không lẽ nào mình lại không nghe nổi tiếng dân mình.

Lên phà là đã cảm nhận được không khí và gió mát của sông Tiền. Đầu tiên là sự mát mẻ, hào phóng của gió đồng bằng, rồi làn nước đục mờ đầy phù sa chảy nhẹ. Chiếc phà T200 chở được rất nhiều xe và người cũng là lần đầu tiên được thấy. Đây là sông Tiền Giang, một nhánh của sông Mê Kông vĩ đại khi chảy vào đất Việt. Tôi thấy vui vì mình đã đến được vùng miền Tây sông nước.

Bỗng tôi thấy anh Thiện trong nhóm kĩ sư nông nghiệp cùng đi Quân khu 9 đang nói chuyện với 1 anh bộ đội người Nam trên phà. Anh người Nam này nói nhỏ, chậm hơn những người rao bán hàng nên tôi nghe được nhiều hơn. Thiện hỏi: - Ở trong này bộ đội có bị đói không? Tôi nghe được anh ta hỏi lại: - Đói là gì? Thiện hỏi nhiều chuyện với anh ta cho đến khi phà cập bến. Tôi không còn nhớ các anh nói với nhau những gì nhưng câu hỏi về cái đói làm tôi suy nghĩ. Giá là tôi thì tôi không dám hỏi như Thiện vì với người lạ hỏi thế cũng hơi kì. Mấy anh xứ Bắc bị nhiều lần ám ảnh bởi cái đói, cái rét nên chợt lo cho mình có bị chuyện đói không khi đã đi đến tận vùng này. Về sau, chúng tôi đi xem phim Làng Vũ Đại ngày ấy[2] chiếu rạp ở Cần Thơ (năm 1982). Lúc này chúng tôi đã nghe được tiếng Nam, khi chiếu cảnh anh Dậu gầy gò ốm yếu cùng các cảnh làng quê miền Bắc những năm thuộc Pháp, tôi nghĩ khán giả miền Nam không hiểu được mấy. Có một anh người Nam ngồi sau tôi nói với bạn: không biết ngoài Bắc người ta thuê ở đâu mà nhiều người gầy gò như thế? Tôi giật mình: ngay lúc này ở Bắc thiếu gì người gầy gò, cái đói đầu những năm 80s còn kinh khủng lắm mà. Loại người gầy gò đó ở đâu chẳng có, ngay cả diễn viên, văn nghệ sĩ cũng là tầng lớp đại diện của nghèo đói, gầy gò. Nhưng ở xứ miền Tây này lấy đâu là người đói, người gầy…

Xe đi tiếp đến bắc Cần Thơ. Lúc này cuối giờ chiều, cảnh sông nước mênh mông hơn bắc Mĩ Thuận, nhưng cơ bản tôi đã được thấy ở Mĩ Thuận nên có cảm giác không quá mới lạ nữa. Cũng có thể mệt mỏi một chút nên kém háo hức hơn buổi sáng chăng? Cái nhánh sông Hậu này mới thực sự là sức mạnh của Cửu Long Giang… Buổi chiều gió mát nhiều hơn, thật khoan khoái với không gian nắng gió đồng bằng mênh mông sông nước.

Đầu bên kia là thành phố Cần Thơ. Khi phà gần cập bến, tôi thấy có rất nhiều xe lôi đón khách. Tôi lại được biết thêm 1 hình thức đưa đón khách bằng xe đạp, xe honda lôi kéo theo cái thùng tự chế rất sáng tạo có 2 bánh lăn theo có thể ngồi được 4-6 người tùy loại.

Thế là đã được đến Cần Thơ, đã qua 2 dòng sông lớn, qua 2 chuyến ‘phà khủng’ T200. Cần Thơ là trung tâm của miền Tây còn được gọi là Tây Đô. Tôi cảm thấy rất tự hào mình có được dịp đến với miền đất này.

Chúng tôi được đưa tới Trạm khách T82 của Quân khu 9 ở Trà Nóc để nghỉ ngơi và chờ công tác. Coi như đã hết những mẩu chuyện của hành trình. Chuyện ở T82 sẽ thuộc về nhóm nội dung: chúng tôi bên nhau trong duyên phận của thời cuộc những ngày ở Cục Kinh tế Quân khu 9.



[1] Phà nói theo phương ngữ Nam bộ gọi là bắc (lấy từ gốc tiếng Pháp: bac).

[2] Làng Vũ Đại ngày ấy là bộ phim nổi tiếng được xếp vào hàng những tác phẩm kinh điển của nền điện ảnh Việt Nam thế kỷ XX. Phim được sản xuất năm 1982 bởi đạo diễn Phạm Văn Khoa.

Thứ Sáu, tháng 10 11, 2024

Mèo "dì" nhà tôi biết nói

 

Con mèo nhà tôi có tên rất lạ: mèo "dì", bởi vì hồi đó 2 chị em nhà mèo cùng đẻ và cứ tranh nhau con, cả nhà phải gọi tên là con "mẹ" và con "dì" để những đứa con mèo của chúng không lẫn lộn mỗi khi phân ổ. Nói chung lũ mèo không nhận ra mẹ và con một cách chính xác, khi cho bú thì mèo này cứ đòi con của mèo kia... Có lẽ chúng mất đi bản năng nhận ra con khi sống với người quá lâu rồi (bị đồng hóa)...

Con "dì" biết nghe và nói nhiều tiếng của người đấy nhé. Chẳng hạn:

- Tủn hỏi: có cho chị bế con của mèo không? Nó nói: ứ...

- Téng hỏi: mặt mèo tròn hay méo? Nó nói: méo

- Tủn hỏi: tháng 7 có mưa gì? Nó nói: ngâu

- Téng hỏi: nhà ta giàu hay nghèo? Nó nói: nghèo

- Tủn hỏi: mèo "dì" ăn vụng phải không? Nó cãi: đâu

- Téng hỏi: trên cây có con gì? Nó nói: sâu

- Tủn hỏi: muốn bắt được chuột phải làm gì? Nó nói: mẹo (phải có mẹo)

- Téng hỏi: ở nhà ta mèo thích ăn gì nhất? Nó nói: ngô (hạt ngô luộc)

- Tủn hỏi: nhà ta có bác gì? Nó nói: Nga

- Téng hỏi: con gì ở biển nấu canh chua ngon rất ngon? Nó nói: ngao

- Téng hỏi: ô tô chạy cần phải có gì? Nó nói: dầu

- Tủn hỏi: khi nước sông trời mưa rào thì nước đục gọi là đục gì? Nó nói: ngầu

- Téng hỏi: học bài rất thuộc thì gọi là thuộc gì? Nó nói: làu

- Tủn hỏi: quả gì chua để nấu canh? Nó nói: me

- Ông Tỏn hỏi: lãnh tụ vĩ đại nhất của Trung Quốc là ai? Nó tỉnh queo: Mao (Mao Trạch Đông)

- Ông Tỏn lại hỏi: vũ khí gì Trương Phi dùng đánh nhau trong Tam Quốc? Nó nói: mâu (bát xà mâu)

- Bà Tủng hỏi: người ta làm gì để bắt cá ngoài bờ sông: Nó nói: câu (đi câu)

- Bà Tủng hỏi: quả gì để các cụ ăn trầu: Nó nói: cau

- ...

Và buồn cười nhất là hôm cả nhà ăn rau muống luộc, bỗng thấy 1 con sâu bé tẹo trong đĩa rau, mọi người không dám ăn nữa và gắp con sâu cho mèo "dì" đang ngồi cạnh. Mèo "dì" kêu: eo ơi...

Những mẩu chuyện bên bàn ăn (3) - Chuyện quả phụt

 

Có 1 món ăn cả nhà được biết sau khi đi chơi ở Hòa Bình: quả lặc lày (hay mướp Mường) luộc. Sau đó ở chợ đầu gần nhà cũng có bán, thế là bà Tủng thường mua về luộc ăn. Một hôm bà Tủng khi ăn quả lạc lày luộc thì bỗng từ trong quả phụt bắn ra một tia nước. Mọi người đang ngơ ngác thì hiểu ra khi luộc, nước bên trong quả được tụ lại, khi cắn một nửa thì nó bị sức ép phụt ra ở cuối nửa kia ra ngoài. Chỉ cần cắn nhanh và ngậm chặt phần bên trong thì áp lực nước phụt ra sẽ mạnh. Thế là tranh nhau bắt chước ‘cắn - phụt’ để bàn ăn có thêm những trận cười tung tóe. Từ đó món lạc lày luộc được gọi tên là món ‘quả phụt’.




 

‘Quả phụt’ thành món ăn ngon, sạch thường xuyên trong các bữa ăn gia đình. Mỗi bữa ăn có ‘quả phụt’ là những tràng cười về các kiểu kỉ lục phụt giữa Téng và Tủn: phụt xa nhất, phụt cao nhất, phụt qua đầu chó Bi,...

Những mẩu chuyện bên bàn ăn (2): - Thi cắn hình vầng trăng

 

Bữa tụ tập hôm ấy đã vào cuối trào, người lớn thì vẫn còn hăng chuyện vì bia rượu còn đang độ ‘bốc’, nhưng tụi trẻ thì im lặng dần và chờ vào màn tráng miệng. Bàn ăn còn mấy món và một đĩa bầu luộc cắt hình tròn vẫn đầy. Các bé ăn ể oải cầm chừng và chọc chọe nhau.


Nhìn không khí cuối trào ấy, ông bố Tỏn nghĩ ra 1 chuyện bảo: Đã ai biết cắn miếng bầu kiểu vầng trăng chưa? Và ông lấy 1 miếng cắn thử trước để miếng bầu còn lại thành hình trăng khuyết. Thế là cả 4 bé lao vào đĩa bầu thi nhau ăn kiểu vầng trăng... Chỉ một loáng đĩa bầu sạch trơn và không khí vui nhộn thi nhau khoe những cái vầng trăng méo, có cả vầng trăng hiện nguyên hình ‘những răng chưa kịp mọc’ trong miệng các bé... Ai cũng có được những vầng trăng trong tay mình để hỏi bố Tỏn xem vầng trăng nào đẹp hơn.

Một cách làm nhỏ đã nhờ đó mà đĩa rau sạch không bị lãng phí, còn các bé thì có thêm dinh dưỡng rau xanh cân đối rong bữa ăn. Các bé lại có thêm ký ức mãi về sau khi thấy món thực phẩm bầu non... Có điều bây giờ mấy bé vẫn còn nhắc bố Tỏn khôn, dạy cho chúng biết ăn khoa học lại thật là vui nhộn.

Những mẩu chuyện bên bàn ăn (1) - Là con gì?

 

Hôm đó trước khi ăn, cả nhà cùng đọc được một chuyện rằng ở xứ nọ có một anh thanh niên (trí thức) và một ông nông dân cùng ngồi trong 1 khoang tàu hỏa. Để đỡ nhàm chán, anh thanh niên nghĩ ra cách đố nhau ăn tiền giữa hai người. Ông nông dân cho rằng ông ta già hơn, biết ít hơn nên sẽ không công bằng nếu tiền thưởng phạt như nhau. Cuối cùng cả hai đi đến thống nhất là nếu ông nông dân đố mà anh thanh niên không trả lời được thì anh ta mất cho ông nông dân 5 đồng, còn ngược lại, nếu anh thanh niên đố mà ông nông dân không trả lời được thì ông sẽ mất 2 đồng. Ông nông dân đố trước: - Con gì trên núi khi đi lên thì đi 3 chân, khi đi xuống thì đi 4 chân? Anh thanh niên nghĩ một lúc không trả lời được nên mất 5 đồng. Đến lượt anh ta đố: - Trí tuệ nhân tạo là gì? Ông nông dân không suy nghĩ gì lấy ngay 2 đồng (trong 5 đồng vừa kiếm được) đưa cho anh thanh niên... Tất nhiên chuyện đố của họ nhau sau đó không còn gì hay ho nữa.

Trong bữa ăn đó, mọi người đều cười khen ông nông dân thông minh, chỉ mỗi Bà cụ Tôn thì tỏ ra không thèm nghe chuyện vớ vẩn, nếu có hỏi thì chắc chắn sẽ được nghe: - Tao chả đọng!

Khi ăn xong, có 3 "kẻ" được "lên trên" trước (không phải dọn dẹp). Chị Tủn lén đi trước để học, Bố Tỏn và em Téng cùng lên cầu thang sau. Bố giả vờ đi lên bằng cả 2 tay và 2 chân (bò lên). Téng thấy hay quá bèn chui vào bụng ông Bố để cùng đi kiểu 4 chân. Thế là chuyện đố lúc này xuất hiện: - Con gì đi lên cầu thang bằng 8 chân, còn đi xuống thì 4 chân? Téng còn đề nghị đổi cho khó hơn: - Khi xuống đi bằng 2 chân (Bố Tỏn sẽ cõng Téng khi đi xuống).

Và thế là tiếng cười hôm ấy "ở trên" rất to và mọi người đều tin rằng bà Tủng khi "lên trên" sẽ không thể trả lời đúng câu đố này.

Thứ Năm, tháng 10 10, 2024

‘NUNG...’


Hồi tập nói, Tủn bắt chước rất nhanh những gì ai đó đọc cho. Chẳng hạn như đọc bài thơ ‘Nhện kia...’, bài hát ‘Quả gì... Quả hế’. Bố Tỏn đọc cho Tủn nghe một bài thơ mà bố thuộc từ hồi đi học (nhưng không nhớ của ai) như sau:

‘Hôm nay trời nắng như nung

Mẹ em đi cấy phơi lưng cả ngày

Ước gì em hoá thành mây

Em che cho mẹ suốt ngày bóng râm’

Tủn thuộc ngay sau 2-3 lần đọc, cứ mỗi khi bố đọc trước một câu thì Tủn đọc ngay được câu đó hoặc các câu còn lại.

Hôm sau khi nhắc lại chuyện đó, Tủn không thể đọc được như hôm trước cũng như các bài trước đã dạy. Thật bất ngờ, mỗi khi nhắc đến chuyện đó, Tủn đều bắt đầu bằng từ ‘nung’ như sau.

Nung... Hôm nay trời...

Nung... Mẹ em đi cấy...

Nung... Ước gì...

Nung... Em che...

Và từ ‘nung’ có vẻ làm Tủn khoái chí lắm nên ngay cả khi ăn, mặc dù mồm ngậm đầy cháo mà vẫn cứ ‘nung...’,  ‘nung...’ luôn miệng làm cháo chảy tràn ra và tít mắt cười một mình. Mấy ngày sau, ‘nung’ trở thành từ khởi đầu cho tất cả các câu chuyện về tập nói của Tủn. ‘Nung’ còn trở thành lời nhắc cả khi ru ngủ hàng ngày.

- Tủn: ‘Nung...’

- Mẹ Tủng: ‘Ba bà đi bán lợn sề’

- Tủn: ‘Nung...’

- Mẹ Tủng: ‘Bán thời chẳng được...’

Còn Tủn thì cứ ‘nung... nung...’ mãi cho đến khi ngủ say. Cả trong giấc ngủ, Tủn vẫn cười mơ dường như đang một mình ‘nung.., nung...’

Đến Sài Gòn lần đầu tiên


Tàu đến ga Nha Trang vào đêm. Tôi không nhớ giờ, chỉ xuống chia tay với các bạn đi QK5 gồm anh Lê Ngọc Lan (trong nhóm 7 người cùng lớp) và các kĩ sư nông nghiệp cùng trường như Dũng (Quắt), Phương, Bùi Văn Sỹ, Quang (Xoăn), Thuấn, Văn Hồng Thanh (Ngang)[1]

Khoảng 2.00pm ngày 20-3-1981, tàu vào ga Bình Triệu. Chúng tôi chia tay các bạn Cao Ngọc Đức (cùng lớp), Tô Văn Đào (KT20B) đi QK7. Anh trung úy tên Dánh là người dẫn đoàn đi QK9 đưa chúng tôi đến nghỉ ở 1 đơn vị quân đội (chắc đã liên hệ trước). Số đi QK9 khá đông, khoảng 30 anh em của nhiều trường đại học, trong đó kĩ sư nông nghiệp đông nhất. Tôi nhận ra nhiều anh em xuống ga Bình Triệu còn có cả bao tải tỏi mang theo. Nghe nói trong này tỏi bán được giá nên đã kịp mang theo kiếm chút lời lãi, thật là có tư duy buôn bán. Chúng tôi được thông báo sẽ đi Cần Thơ vào sáng 23-3-1981. Thế là chúng tôi có mấy hôm được nghỉ ở Sài Gòn.

Phố phường Sài Gòn ồn ào hơn Hà Nội. Tiếng người, tiếng xe ầm ĩ náo nhiệt lẫn tiếng rao bán hàng, đón khách với âm giọng hơi cao là cảm giác khá lạ với tôi. Chúng tôi tự hào đã được đến Sài Gòn - hòn ngọc Viễn Đông một thời.

Khi đó tôi không quen biết ai ở Sài Gòn. Giang biết địa chỉ của bà dì nên ngày hôm sau chúng tôi cùng đến thăm. Có lẽ dì là người Bắc đã di cư vào Nam từ lâu. Dì có căn nhà bình dị trong phố nhỏ. Tôi không nhớ lắm chuyện ở nhà dì nhưng gặp được anh Trần Hữu Long là tôi còn nhớ rất kĩ. Anh Long là anh trai ruột của Giang đi bộ đội vào Nam đã lâu. Anh xuống thăm dì từ Thủ Dầu Một và bất ngờ gặp chúng tôi ở đây chứ không hẹn nhau trước. Giang mừng ra mặt vì được gặp anh ở nhà dì. Anh Long hiền lành, hay nói chuyện, giọng nhỏ nhẹ dễ mến. Anh Long giới thiệu chúng tôi với dì: nào là các kĩ sư tốt nghiệp đại học rồi mới đi bộ đội, nào là ở ngoài Bắc các kĩ sư có tiền đồ tốt nay vào bộ đội bảo vệ Tổ quốc, nào là các trí thức miền Bắc nhưng giản dị và khiêm tốn… Thái độ anh Long rất chân thành, lộ rõ sự tôn trọng trí thức, tôn trọng kiểu ngưỡng mộ và tự hào.

Chúng tôi nói chuyện với anh rất cởi mở. Tôi có dịp hỏi anh trong này sách báo có dễ tiếp xúc không? Anh nói rằng sách báo cũ thì cơ bản khó tìm ở các thư viện nhưng sách báo đưa vào từ miền Bắc thì các đơn vị nào cũng có thể đọc hoặc mượn về đọc. Anh nói anh cũng thích đọc sách nhưng là bộ đội lâu năm nên chủ yếu chỉ đọc Văn nghệ quân đội, còn sách truyện, tiểu thuyết chưa đọc được mấy. Anh cười nói rằng các truyện ngắn trong Văn nghệ quân đội viết dễ hiểu, mình dễ ‘tiêu hóa’ (nguyên từ anh Long nói). Ý anh có thể là anh không phải dân trí thức như chúng tôi nên anh khiêm tốn, không đi sâu vào chuyện sách vở so với đám kĩ sư miền Bắc lắm ‘mọt sách’. Anh có phần hơi ngưỡng mộ chúng tôi quá chăng? (Chợt nghĩ về mấy hôm trước bọn này người đầy chấy rận !!!)

Anh nói với chúng tôi rằng các em là lính lại là kĩ sư vào đây có thể được tôn trọng hơn lính chiến. Ở Sài Gòn người dân quý trọng anh bộ đội lúc mới giải phóng do tính kỉ luật, nghiêm túc, rất khác với những hình ảnh cộng sản được tuyên truyền hồi chế độ cũ. Tuy nhiên, nhiều chuyện cũng làm mất uy tín bộ đội khi có những vi phạm kỉ luật của một số cá nhân bộ đội sau này. Nói chung đồng bào Sài Gòn nói riêng, miền Nam nói chung vẫn quý trọng bộ đội. Mình là người trong cuộc mới biết tấm lòng của đồng bào đối với bộ đội cộng sản và đồng bào hiểu bộ đội miền Bắc cũng đều là dân Việt Nam. Người Việt Nam có truyền thống thương người, đùm bọc nhau. Càng sống càng thấy người Sài gòn thương yêu bộ đội.

Nói chuyện với anh Long là kỉ niệm tôi còn nhớ rất kĩ lần đầu tiên tôi tới Sài Gòn. Sau này có nhiều dịp công tác, tôi hiểu thêm nhiều về Sài Gòn và cũng chiêm nghiệm được nhiều hơn về người dân Sài Gòn. Hồi 2009-2011, tôi là Trưởng Khoa Kế toán và Quản trị kinh doanh của Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã dám đi tiên phong tuyển 2 lớp cao học Quản trị kinh doanh trong này[2] (1 lớp học ở Học viện Hàng không và 1 lớp học ở Đại học Bà Rịa- Vũng Tàu), có dịp tiếp xúc với nhiều giảng viên đại học các trường phía Nam cùng tham gia hợp tác giảng dạy, tôi càng rõ hơn học viên phía Nam thích đổi mới, ham học hỏi kiến thức một cách cầu thị nên họ đòi hỏi sự nghiêm cẩn và tử tế trong môi trường giáo dục. Tôi có nhiều kỉ niệm với học viên cao học phía Nam cho đến nay vẫn còn thường xuyên nhắc đến trong những dịp gặp nhau.

Sài gòn ngày nay (cũng như Hà Nội) là tụ điểm lớn của cư dân cả nước. Mỗi lần đến Sài Gòn tôi vẫn có cảm giác gặp được đồng bào Sài Gòn qua những câu chuyện của anh Long hồi ấy khi bất chợt thấy những cử chỉ, hành động khiêm cẩn, tôn trọng nhau của người dân trên đường phố.



[1] Sau này chỉ Dũng (Quắt) và Quang (xoăn) là tôi chưa gặp lại. Phương trước khi nghỉ hưu từng là Bí thư huyện Lâm Hà (Lâm Đồng). Bùi Văn Sỹ ra quân về Viện Nghiên cứu cà phê Tây Nguyên, sau ra Hà Nội. Thuấn về Công ty bông Hà Nội, Văn Hồng Thanh trước khi mất là Giám đốc Sở Nội vụ Hòa Bình

[2] Từ năm 2010, đó Bộ Giáo dục và Đào tạo không cho phép các trường ở phía Bắc mở cao học ở phía Nam.

Thứ Tư, tháng 10 09, 2024

Nhớ lại 3 trò tếu táo trong hành trình

 

Hành trình từ Hới vào chỉ còn mấy chuyện gọi là vui tếu táo của lính. Vả lại, hành trình 4 ngày 3 đêm cũng đủ dài cho mấy trăm lính ngồi bên nhau nên chuyện rồi cũng cạn, những tếu táo bước vào pha ‘phá cách’ trêu nhau.

Chuyện thứ nhất

Cuối buổi sáng ngày thứ 2, mọi người thấy mệt mỏi ngứa ngáy, ai cũng nghĩ vào miền Trung bắt đầu nóng hơn, lại mấy ngày không được tắm. Bỗng một thằng phát hiện ra ‘sự kiện khủng khiếp’: những con rận béo núc trong áo quân phục nhàu nát. Thế là cả bọn cởi áo, vạch quần tìm rận trên tàu. Mấy chục chàng cởi áo tìm rận tạo ra những trận cười ran: tao lại thấy thêm 1 con, tao thấy một hàng trứng rận trắng phau, chỗ này tao tìm được 2 vợ chồng rận ôm nhau… Đôi kẻ còn như anh AQ trong truyện Lỗ Tấn thấy mình bắt được ít rận hơn thằng bạn bỗng nổi ghen. Ha ha ha, đoàn tàu của năm 1981 chở toàn kĩ sư, bác sĩ-sĩ quan được đào tạo bài bản từ miền Bắc XHCN và nước ngoài về đều bị bọn kí sinh trùng nguy hiểm bẩn thỉu tấn công. Bọn chúng ‘được hưởng’ từ dòng máu trí thức vô số những tư tưởng mới, kiến thức mới. Khi chấy rận tấn công trí thức thì trí thức làm mồi cho chấy rận còn trí thức chung sống với chấy rận thì trí thức có bị nhiễm bản năng chấy rận để ‘kí sinh’ vào chế độ, ‘kí sinh’ vào niềm tin XHCN? Ôi, Trí thức – Chấy rận!!!

Đúng là con người cao quý lúc này, bần tiện lúc kia, mà lại bần tiện cả đoàn luôn. Cao quý và bần tiện gần nhau quá, gần như một cái trở tay.

Có thể nói đoàn tàu chở chấy rận di cư từ Bắc vào Nam theo lính hay cả đoàn lính mang theo tàu cả một binh đoàn chấy rận nhập cư trái phép vào Nam? Chúng rất ghê tởm nhưng được ngụy trang trong hình hài của những chàng kĩ sư, bác sĩ-sĩ quan danh giá. May quá, bọn này vô tình bị nóng miền Trung phát hiện và nhanh chóng bị tiêu diệt trong những giờ nhàn hạ trên hành trình dài. Suýt nữa bọn chấy rận này thắng trong cuộc đổ bộ vào Nam đầy mưu lược ‘kiểu chấy rận’.

Chuyện thứ hai

Khi tàu qua các hầm ở đèo Hải Vân, cả bọn ngơ ngác thấy bỗng nhiên tàu tối đen giữa ban ngày. Khi ánh sáng trở lại mọi người phát hiện ra tàu vừa qua hầm xuyên núi. Sau những hầm đầu tiên, khi bộ đội nhìn thấy hầm thì kêu to: tàu sắp vào hầm. Mọi người ngồi chờ toa tàu sáng lại để đoán hầm dài ngắn bao nhiêu.

Thế rồi 1 lần tàu vào hầm, trong bóng tối bỗng có chàng kêu oai oái. Tiếng kêu thất thanh: đừng đánh, đừng đánh, mẹ thằng nào đánh tao… Khi tàu qua hầm, mọi người thấy chàng tên Khanh mặt đỏ gay, đau đớn chảy nước mắt. Mấy đứa ngồi bên mặt tỉnh queo. Thì ra Khanh bị ‘đánh hội đồng’ khi tàu vào hầm, chẳng biết kẻ nào, chẳng biết vì sao từ cái lũ mặt tỉnh queo ấy. Có kẻ cũng hơi quá tay một chút nên Khanh bị đau thật.

Khanh là kĩ sư Trồng trọt học trường Đại học Nông nghiệp I. Hồi cùng học sĩ quan dự bị, chúng tôi đã biết Khanh thường xuyên bị trêu chọc. Khanh quê Thái Bình, người thấp nhỏ, da trắng, mắt hơi lé, nụ cười rất “đĩ’ nhưng lại dễ tin người, không hiểu được các bạn trêu thật hay đùa vì thế bị ‘hành hạ’ đủ kiểu chỉ để cười. Khi ở Sơn Tây có bạn gọi Khanh ra nói rằng Khanh có bạn gái đến chơi đang đợi trên phòng đại đội. Thế là Khanh lao đến hỏi, không thấy bạn mới biết bị lừa. Lại có lần bọn thích trêu nói có người hỏi thăm Khanh đang ở mé đồi gần làng, hình như ở quê lên. Khanh vội tìm đến thì gặp một lũ bộ đội bảo Khanh vào quán ăn kẹo dồi, uống nước chè rồi đợi. Sau đó bắt Khanh trả tiền cho cả lũ rồi mới dẫn đi. Khanh trả tiền xong thì cả lũ bỏ chạy, Khanh lại ăn quả lừa.

Sau đó, mỗi khi tàu vào hầm là Khanh bỏ chạy ra xa đám ‘mặt tỉnh queo’ để tránh bị tra tấn kiểu ‘hội đồng’. Có lúc chẳng có hầm nhưng có chàng kêu tàu sắp vào hầm để Khanh chạy rồi cười với nhau. Vui được một chặng đường dài.

Chuyện của Khanh có dịp tôi còn nhắc thêm (Khanh cũng được phân công về Cục Kinh tế Quân khu 9 cùng chúng tôi) với những pha ‘dở khóc dở cười’ kiểu đó.

 Chuyện thứ ba

Còn một chuyện nữa cũng đáng nói là khi tàu dừng khá lâu ở 1 điểm ngoài ga cung đèo Hải Vân. Bộ đội thấy ngay bên dưới có một suối nước trong xanh. Trời về chiều nắng nóng nên ai thấy cũng muốn được tắm. Bỗng một đoàn 7-8 lính lao ra khỏi tàu đi xuống suối tắm. Nhìn họ tắm mà thèm quá, bơi lội trong làn nước trong xanh giữa cảnh núi non xanh ngắt hữu tình. Nhiều kẻ định lao theo thì tàu hú còi và xịch xịch chạy nhanh dần. Đám tắm dưới suối vội lao lên nhưng không kịp nữa rồi. Bộ đội nhìn xuống áy náy cho bọn tắm cởi trần vẫy vẫy áo cho tàu dừng lại, vừa vẫy vừa chạy theo tàu…

Nghe nói bọn này sau bắt xe kịp trở lại tàu ở ga Đà Nẵng. Chắc mấy chàng gan góc này không bao giờ quên được cảm giác suối mát lành và cảm giác giật mình khi tàu chạy bỏ rơi chúng.

Từ đây vào Nam chúng tôi chỉ còn thấy những hình ảnh mới lạ khi tàu vào các ga chứ không còn gì đáng nhớ. Nào là từ ga Đà Nẵng vào Nam bọn lính cãi nhau sao tàu lại lôi ngược ra Bắc, nào là ga gà, ga đường phèn, ga xoài, ga mực khô… trong hành trình khi thấy những cư dân địa phương bán những sản vật trước các cửa toa tàu. Càng vào sâu, bộ đội đều mỏi mệt nên không có trò tếu táo gì hay ho nữa.

Thứ Sáu, tháng 10 04, 2024

Hai chuyện đáng nhớ trên đất Hới


Tàu qua ga Vinh lúc đêm nên tôi không có cảm nhận gì và khi đó tôi cũng chưa từng đến xứ Nghệ. Trong tàu có rất nhiều anh em quê Nghệ An, Hà Tĩnh nhưng tôi không để ý các bạn chia tay Vinh thế nào.

Trời đã sáng rõ, chúng tôi được thông báo sắp vào ga Đồng Hới, Quảng Bình (ngày 18-3-1981). Lúc này trên tàu, lính đã được phát bánh mì ăn sáng. Chúng tôi ăn ể oải món vừa dai vừa cứng kiểu lương khô cho lính và không ai hứng thú gì với bữa ăn sáng đầu tiên trên tàu.

Dưới ga có một số người đưa tiễn lính – thì ra cũng có nhiều anh em Quảng Bình đã xin về nhà nay ra đón tàu. Một anh lính bịn rịn chia tay người vợ trẻ bụng căng lè sắp sinh. Anh băn khoăn nhìn vợ trẻ, chắc có nhiều tâm tư chưa nói hết trong buổi chia tay. Chị vợ sẽ phải chịu đựng cảnh đẻ đứa con đầu lòng mà không có anh ở cùng. Bọn tôi chưa có người yêu chưa thể nghĩ đến điều này. Đám lính mới ngủ dậy ăn sáng xong nên hô hoán ầm ĩ trêu chọc: Em ơi, đẻ cho anh thằng cu nhé; Ở nhà em  nhé, anh đi hết giặc lại về; Chịu khó một mình em nhé, anh sẽ nhớ em rất nhiều… Anh lính chia tay vợ trong cảnh náo nhiệt ầm ĩ đó, chắc người vợ trẻ hiểu được tình cảnh bọn lính chúng tôi trên tàu.

Bỗng nhiên có một “anh khùng” đi dọc theo các toa tàu nói rất to: “chúc các thủ trưởng đi Nam sức khỏe bình thường, tình yêu lộn xộn”. Hay quá, anh ta đi dọc theo các toa và xin bánh mì. Trong toa ai còn mẩu bánh nào thì tung ra cho anh và khuyến khích anh hô to. Anh cười rất tươi, tay nhặt bánh mì, miệng nhắc lời chúc nhiều lần. Vui ghê, cười rũ rượi. Sức khỏe thì chỉ cần bình thường là được rồi, nhưng tình yêu lộn xộn thì nghĩa là gì nhỉ? Tôi nhớ mãi nụ cười trên khuôn mặt đen gầy của ‘anh khùng’ và cái áo bẩn đang mặc giăng ra để đựng những mẩu bánh mì lính tung cho anh một khi anh hét lên lời chúc ‘để đời’. Tàu qua, chúng tôi chia tay Hới với 2 cảnh tượng đó, nhưng thú thiệt cảnh anh khùng làm vui mọi người và át đi sự chia li giữa người vợ trẻ sắp sinh và anh lính lên tàu năm ấy.

Sau này tôi được biết đấy là anh Lê Văn Tiệc chia tay vợ. Chuyện anh Tiệc và người vợ - Chị Ngô Thị Bình có thể sẽ còn trong nhiều bài viết của tôi trên blog này bởi cho đến nay chúng tôi vẫn thường xuyên gặp nhau. Khi đến Quân khu 9, anh Tiệc được quyết định công tác ở Campuchia, chúng tôi cũng được gặp anh Tiệc mấy lần ở Cần Thơ. Khi tôi đi qua Phnom Pênh tôi cũng có những kỉ niệm với anh, hi vọng rồi tôi sẽ có dịp nói thêm sau này.

Qua ga Thanh Hóa – cảm nhận Vọng Phu


Vào khoảng 2.00pm ngày 17-3-1981, tàu vào ga Thanh Hóa. Tại đây tàu thường dừng lâu vì có thể thay đầu máy hoặc bổ sung gì đó cho ca kíp công việc. Lúc này tàu đã đi được hơn 10 giờ nên câu chuyện ở các toa cũng ít dần, không còn huyên náo như hồi sáng.

Tôi xuống ga đi dạo một lúc cho đỡ chồn chân. Ga Thanh Hóa là nơi lần đầu tiên (hồi lớp 5) được ăn que kem ga. Đây là ga lần đầu tiên tôi ra Hà Nội học vào chiều tối ngày 17-12-1975. Lần này tôi rời ga Thanh Hóa để đi Nam coi như kỉ niệm chuyến đi dài cả nghìn km, lại một dịp đầu tiên trong đời.

Khoảng 30 phút sau, tàu xuất phát về phía Nam. Tôi tạm biệt ga và nhìn qua cửa sổ phía Tây thấy ngay hình ảnh hòn Vọng Phu ở núi Nhồi. Thấy hòn Vọng Phu qua cửa toa tàu chỉ một thoáng mà gợi cho tôi bao nhiều điều. Hòn Vọng Phu và một khối đá tự nhiên ở núi Nhồi, Đông Hưng, Đông Sơn (nay thuộc thành phố Thanh Hóa). Hình dáng Vọng Phu là bức tượng người đàn bà bế con nhìn về phương Nam, có cả con chó đứng dưới chân. Vọng Phu trong các câu chuyện văn học là người đàn bà chờ ngóng chồng đi Nam đánh giặc. Tôi nghe về chuyện những chàng trai xứ Thanh ngày xưa từng đi lính vào Nam, về hàng vạn người con Thanh Hóa từng đi Nam trong cuộc chiến vừa qua. Hòn Vọng Phu có lẽ đã in dấu trong bao chàng trai xứ Thanh đi lính phía Nam như tôi trong hàng trăm năm mở cõi và giữ nước.

Nhìn hòn Vọng Phu, sau này tôi có dịp quan sát kĩ hơn tình cảnh người đàn bà Thanh Hóa và văn hóa làng xứ Thanh.

Xuyên suốt chiều dài miền Trung, có biết bao nhiêu làng xã là người xứ Thanh định cư khi mở cõi ở Huế, ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa… Họ ban đầu là lính, sau khi quân dịch hoàn thành, vùng đất mới được giao canh giữ để canh tác và bảo vệ. Rồi chúa Nguyễn quê xứ Thanh, rồi cuộc chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh… Ngày nay trên dải đất miền Trung không khó tìm những vùng có cư dân Thanh Nghệ cư trú mấy trăm năm qua. Vọng Phu hóa đá là khi người đàn bà chờ không thấy chồng về. Chồng của họ đã chết trong các cuộc chiến hay đã lấy vợ mới khi định cư nơi xa ngái không về…

Hòn Vọng Phu còn liên quan đến tục đa thê phổ biến ở xứ Thanh cho đến trước 1945. Đa thê ở đây là cảnh người đàn ông lấy nhiều vợ và chung sống ‘êm thấm’ trong gia đình nhiều vợ nhiều con. Đây là một trong những đặc điểm khác miền Bắc. Người đàn bà xứ Thanh quen với cảnh “sản xuất nhân lực” cho các cuộc chinh phạt mở cõi mấy trăm năm nên bản lĩnh nuôi chồng, nuôi con đi đánh giặc vốn đã in hằn trong tình cảnh những người đàn bà cam phận đẻ cho chồng thật nhiều con trai. Bản năng ấy không chỉ có giá trị gia đình mà còn có giá trị cho đất nước. Họ sẵn sàng chung sống hòa thuận để ‘sản xuất’ được nhiều chàng trai mạnh mẽ cho các cuộc chinh phạt phía Nam. Việc chung sống hòa thuận của 2 bà, thậm chí 3-4 bà không thành vấn đề bởi lợi ích quan trọng hơn là có nhiều chiến sĩ ra mặt trận cho sự nghiệp mở cõi của dân tộc Việt.

Có dịp tôi sẽ kể thêm về ‘đặc trưng làng’ của xứ Thanh. Làng của xứ Thanh rất ít có cổng làng. Tên địa danh ‘xá’ như Dương Xá, Đặng Xá, Lê Xá, Nguyễn Xá, Trần Xá,… ở xứ Bắc cũng rất hiếm có. Làng của Bắc bộ có đặc trưng cổng làng, lũy tre và cấu trúc đình-chùa-miếu-giếng-ao… cơ bản như nhau, nhưng làng ở xứ Thanh là kiểu “làng mở’, không có cảnh đóng cổng ban đêm, làng không có ‘xá’ của một dòng họ mà luôn có nhiều dòng họ chung sống, làng hướng ra mọi phía, sẵn sàng ‘ra-vào’ nghĩa là sẵn sàng xuất phát-rút lui. ‘Làng mở’ chứ không phải ‘làng đóng’. Đó là cái rất khác lạ.

Đó cũng là tính cách người xứ Thanh quảng giao khá rộng rãi với mọi người (nhưng không chơi ăn ý lắm với ‘đồng hương’). Có dịp tôi sẽ bàn thêm về chuyện này.

Cục đá buộc phong thư


Sau khi cho lính về quê ăn Tết Tân Dậu (1981) mấy ngày, chúng tôi trở lại đơn vị. Đến ngày 27-2-1981 (tức 23-Giêng-Tân Dậu), mọi người nhận được quyết định đi đến các đơn vị công tác. Số đi các Quân khu 5, Quân khu 7 và Quân khu 9 khá đông, nhất là các anh học ngành nông nghiệp. Chiều 15-3-1981, chúng tôi được lệnh hành quân rời doanh trại đến tập trung ở bãi đất trống ngoài làng Mông Phụ xã Đường Lâm. Bộ đội đều có quân hàm sĩ quan còn mới nhưng các bộ quần áo thì cũ mèm. Việc đóng quân trên đồi rất hiếm nước lại vào mùa đông nên tắm giặt không thường xuyên, quần áo lăn lộn trong khu vực doanh trại thì ‘tiện đâu ngồi đó’ nên đều nhàu nát, bẩn thỉu, có anh còn ‘khoe’ 3 tháng không tắm giặt. Việc tập trung cả mấy trăm người ồn ào trong cảnh thiếu nghiêm túc, rất khó quản lý. Mọi người được nghe phổ biến nhiều thứ nhưng chỉ nhớ là 2 ngày sau thì đến ga Hàng Cỏ đón tàu đi Nam.

Chúng tôi đến ga lúc còn chưa sáng, gặp nhau đầy đủ cả, chắc cũng không có ai muốn trốn hay chậm trễ. Rồi theo các toa, đoàn tàu chở toàn lính rời Hà Nội lúc 6.00am ngày 17-3-1981. Có vài người đưa tiễn (chắc con em người Hà Nội) nhưng không nhiều và cũng không có cảnh rưng rưng như hồi còn chiến tranh, nói chung không tệ lắm về chia li. Tàu qua đường Nam Bộ (nay là Lê Duẩn), tôi nhìn Công viên Thống Nhất, Đại học Bách Khoa, Bệnh viện Bạch Mai, Ngã tư Vọng… như cố nhớ thêm một lần nữa những nơi tôi đã từng đến những năm học Đại học ở Hà Nội.

Qua khỏi Hà Nội, tàu chạy nhanh dần và câu chuyện lính vui vẻ rôm rả là chính, lại trêu đùa, ồn ào. Anh em học cùng trường tụ lại với nhau nói chuyện nên đại loại vui như ngày nay đi du lịch. Có mấy nhóm đánh bài là vui nhất, tiếu lâm râm ran.

Tôi lặng lẽ suy tư về tương lai, không biết sẽ đi đến đâu nhưng cảm giác được đến Sài Gòn, đến miền Nam có phần mới lạ. Tuy chưa biết gì về vùng đất này nhưng vẫn có cái háo hức của tuổi trẻ chưa được đi nhiều trải nhiều.

Tàu qua Nam Định thấy có mấy người lên tàu – nhóm anh em tranh thủ về nhà và xin phép đón ở ga Nam Định. Tàu qua ga Ninh Bình, tôi thấy anh Lê Ngọc Lan len ra gần cửa toa. Tôi nghĩ anh đang chờ vợ ra vẫy tay chào khi tàu chạy qua cổng cơ quan vợ anh. Anh Lan mới cưới vợ được hơn 1 tháng trước khi đi Nam. Tôi ghé mắt qua cửa sổ chờ xem cảnh anh chị chia li thế nào. Bỗng tôi thấy anh Lan ném cái gì đó và nói với người gác đường tàu. Thì ra một cục đá có buộc một phong thư anh gửi cho vợ. Tàu đi nhanh qua không kịp thấy gì nữa. Sau này tôi mới biết anh không kịp báo tin cho vợ ngày đi Nam nên chỉ kịp viết thư buộc một hòn đá để nhờ bác gác đường tàu đưa cho vợ anh. Anh này có vợ sớm nên khôn ghê, thư đó đến được với người vợ trẻ của anh thì thật nhiều ý nghĩa.

Mãi sau này, vào 12-2023 nhóm chúng tôi tổ chức chuyến đi du lịch phía Nam cùng nhau, tôi nhắc lại kỉ niệm này thì chính anh Lan dường như đã không nhớ rõ. Riêng vợ anh – chị Dính – thì nói chị đã nhận được bức thư ấy và chị cũng cho biết nhiều người trong cơ quan của chị cũng từng nhận được thư (kể cả không phải là lính) qua kiểu buộc cục đá nhờ ông “bưu tá” gác đường tàu.

Chuyện anh Lan yêu chị Dính từ trước khi vào Đại học, chúng tôi ở cùng phòng với anh nên biết khá rõ nhiều chuyện, có thể tôi cũng sẽ kể thêm khi có dịp viết về những năm tháng trong kí túc xá Đại học Nông nghiệp I.