Cục Kinh tế Quân khu 9 và đơn vị mới thành lập. Chúng tôi đến (ngày 13-4-1981) thuộc nhóm cán bộ sĩ quan đến đợt 1, sau đó ít lâu thì có thêm các sĩ quân và hạ sĩ quan bổ sung đến từ ĐH Cần Thơ và các ĐH khác.
Thủ trưởng Cục
Cục
phó Phụ trách Chính trị Cục là Thượng tá Nguyễn Văn Bảy (Bảy Sa), Cục phó tham
mưu là Trung tá Trần Kì Vân (Ba Kì Vân), Cục phó Trung tá Nguyễn Nhật Quang
(Hai Nhật Quang). Khoảng cuối 1981 thì mới có Cục trưởng là Đại tá Nguyễn Thanh
Vân (chuyển từ Quân khu 4 vào).
Phòng Tham mưu – Kế hoạch
Trưởng
phòng: Thiếu tá Nguyễn Hữu Chước (Hai Chước), phó phòng: Đại úy Bùi Phước.
Các
sĩ quan: Bính, Giang, Ảnh (ĐH Nông nghiệp I), sau này có Chuyên (ĐH KTQD)
Hạ
sĩ quan: Thoải (ĐH KTQD)
Các
nhân viên quốc phòng: Đến từ ĐH Cần Thơ: Nguyễn Thanh Tâm, Nguyễn Hồng Ngọc, Nguyễn
Văn Trung, ĐH KTQD: Luận.
Phòng Nông nghiệp
Phụ
trách: anh Bảy Sinh
Các
sĩ quan: Nhóm ĐH Nông nghiệp I: Châu, Thiện, Lý, Thế, Hải (Kì Lừa), Hải (con),
Nguyễn Văn Nên, Tuấn (ghe), Khanh. Sau này có thêm Lẫm (ĐH Nông nghiệp III),
Giang Thành Phong, Nguyễn Thành Long (ĐH Cần Thơ).
Hạ sĩ quan: Sơn (ĐH Cần Thơ) và 1 anh bạn nữa chưa nhớ tên cũng từ ĐH Cần Thơ
Nhân
viên quốc phòng: Các anh đến từ ĐH Cần Thơ: Nguyễn Văn Minh, anh Giản (đánh
bóng chuyền giỏi), anh Hà.
Phòng Lao động tiền lương:
Trưởng
phòng: Đại úy Tám Khai
Sĩ
quan: Bình (Hũ) (ĐH KTQD)
Hạ
sĩ quan: Thịnh (ĐH KTQD)
Phòng Xây dựng cơ bản
Trưởng phòng: Thiếu tá Quân (Giang nhắc là Lâm Hồng Quân)
Phó
phòng: Đại úy Năm Nhân
Sĩ quan: Thượng úy Nguyễn Thế Mạnh, Trung úy Ngưỡng từ Đoàn 622 chuyển về khoảng thời gian cuối 1981.
Giữa 1982 có Trung tá Sáu Mẫn chuyển từ Trường Quân chính QK9 về chờ
hưu.
Hạ
sĩ quan: Lê Văn Đúp (ĐH Cần Thơ), Ngô Mạnh Hùng (học Liên Xô về), Thủy (học
Liên Xô về).
Nhân
viên quốc phòng: anh Hòa (ĐH Thủy lợi).
Ban Công tác Chính trị
Trưởng phòng: Đại úy Tri (hay Chi? - Giang nhắc tên)
Sau
có thêm phó phòng: Thượng úy Lượng
Phòng Tài vụ
Trưởng
phòng: Trung tá Bảy Như
Phó
phòng: Thượng úy Ba Đán
Sĩ
quan: Các Trung úy Hạnh, Thực, các Thiếu úy: Khởi, Hồng, Thanh (Thủ quỹ), Thơ… đều
học từ Tài chính quân đội, Đào (ĐH Nông nghiệp I)
Nhân
viên quốc phòng: Hai Tài
Phòng Hành chính – Quản trị - Vệ binh
Thượng
úy: … Thị Thủy (quân nhu)
Trung
úy Nguyễn Văn Đua (giữ con dấu)
Thủ
quỹ đơn vị: Chị Kim (là vợ Nguyễn Văn Minh – Phòng Nông nghiệp)
Các
nhân viên: chị Kim Đẹp, chị Lệ đánh máy, một anh phụ trách thợ điện (không nhớ
tên)
Lái
xe: Thiếu úy Tuấn, Chuẩn úy: Cứng
Cần
vụ cho Cục trưởng Ngô Thanh Vân: thượng sĩ Đĩnh
Vệ
binh do Trung sĩ Hải phụ trách một nhóm: Biên, Thắng, Hà, Dũng (đi lính khi
đang là sinh viên ĐH Cần Thơ)…
Các
chị nhà bếp: (có một chị có cháu trai tên Hải nhỏ con rất lanh lợi, biết hết mọi
chuyện trong Cục).
Đến
cuối 1981 đầu 1982 có nhiều anh em chuyển đi các đơn vị khác. Nhóm ĐH Nông nghiệp
I gồm Tuấn (ghe) đi Nông trường Cờ Đỏ, Nguyễn Văn Nên, Lý, Khanh đi Minh Hải,
Châu đi Đồng Tháp, Hải (Kì Lừa) đi Bến Tre… Giang Thành Phong đi NT Muối 406 (Bạc
Liêu), Nguyễn Thành Long đi Ô Môn… Vệ binh: Thắng, Dũng[1] đi NT Muối 406… Hầu hết
các anh chị chuyển đi tôi đã có dịp gặp lại ở đơn vị mới. Có điều kiện tôi sẽ
ghi chép thêm những kỉ niệm khó quên với nhiều lần đi công tác về các đơn vị
trong Cục, thực chất là những trải nghiệm rất quý giá trong cuộc đời tôi.
Tôi
tiện nhắc ở đây tên các anh chị theo các phòng, ban để những câu chuyện về sau
có liên quan không cần nêu lại. Nhìn chung, ngoài các thủ trưởng Cục và Phòng,
Ban là các sĩ quan quân đội lâu năm, còn lại là các anh chị tốt nghiệp ĐH từ Bắc
vào và từ ĐH Cần Thơ ở ngạch quân nhân chính quy hay nhân viên quốc phòng. Rõ
ràng là đơn vị Cục Kinh tế mang dấu ấn của những cán bộ kĩ thuật có chuyên môn
được đào tạo hẳn hoi từ các trường ĐH chính quy khi đó, là tiềm lực không thể
phủ nhận cho một đơn vị được tổ chức có ý đồ liên quan đến phát triển kinh tế
quân đội. Tuy nhiên, chỉ chưa đầy 2 năm sau thì Cục Kinh tế Quân khu 9 giải
tán. Mãi đến 2023 qua câu chuyện với anh Nguyễn Kim Quất (sĩ quan từ Tổng cục
Kinh tế Bộ Quốc phòng) tôi mới hiểu ý đồ xây dựng tổ chức Tổng cục Kinh tế có tầm
cỡ từ quốc phòng toàn dân, toàn diện trong bối cảnh sau cuộc chiến tranh với
Trung Quốc tháng 2-1979 và cuộc chiến ở Campuchia.
Nhìn
lại cuộc đời, bản thân tôi nhận thấy đây là những năm tháng vô tư, sung sướng
nhất về nhiều mặt, nhưng cũng là những trăn trở nhất giữa kì vọng và thất vọng
về quan niệm giữa trí thức và người lính, giữa trí thức Nam và trí thức Bắc, giữa
cấp dưới và cấp trên… Đại loại có những vấn đề sau:
1/
Về sinh hoạt: chúng tôi rất đầy đủ về ăn uống, ngủ nghỉ, vui chơi... Là binh
nghiệp nhưng vẫn còn được sử dụng như các công việc chuyên môn ít ỏi. Thời gian
này sống vô tư, nhiều nhiệt huyết, được đọc sách, được quen với nhiều bạn mới ở
phía Nam.
2/
Được trải nghiệm rất thú vị với hào sảng phương Nam: cuộc sống, con người ở
vùng quê sông nước, miệt vườn cây trái. Đây là thời gian chúng tôi có các chuyến
công tác nhiều kỉ niệm…
3/
Những dao động ban đầu của trí thức (trước gọi là trí thức tiểu tư sản): không
được phân công việc làm ổn định, bế tắc trước lối sống của một số đồng đội, không
thấy sự phát triển tương lai…
4/
Một số vấn đề giữa trí thức Nam và trí thức Bắc: anh em trí thức Nam muốn ẩn giấu
tri thức tiếp cận từ tiếng Anh và vừa ngưỡng mộ vừa nghi hoặc tri thức của tiếng
Nga.
5/
Những vấn đề va chạm cuộc sống: cấp dưới – cấp trên, gia trưởng quân sự, trình
độ lãnh đạo, quản lý, những nghịch cảnh phải trái…
6/
Được lãnh đạo (hẹp hòi) cho nếm những thử thách ban đầu của người lính.
Nếu
có điều kiện tôi dự định sẽ viết rất nhiều câu chuyện (đã in sâu trong kí ức) những
năm tháng này với niềm tự hào không hổ thẹn về cuộc đời của chúng tôi. Vào những
năm 2000, trong một bữa vui họp mặt, một ông giáo già hơn tôi 30 tuổi hỏi tôi: “những
năm đi bộ đội đã có được những gì”? Khi đó tôi trả lời ngay: “không có được gì đáng
kể mang về nhưng những gì tôi có được hôm nay đều từ những năm tháng đó mà ra”!
Câu trả lời chỉ là bật ra trên bàn ăn rộn rã, nhưng sau suy nghĩ lại thấy đúng
quá, đúng mãi cho đến tận hôm nay…