Vào
khoảng 2.00pm ngày 17-3-1981, tàu vào ga Thanh Hóa. Tại đây tàu thường dừng lâu
vì có thể thay đầu máy hoặc bổ sung gì đó cho ca kíp công việc. Lúc này tàu đã
đi được hơn 10 giờ nên câu chuyện ở các toa cũng ít dần, không còn huyên náo
như hồi sáng.
Tôi
xuống ga đi dạo một lúc cho đỡ chồn chân. Ga Thanh Hóa là nơi lần đầu tiên (hồi
lớp 5) được ăn que kem ga. Đây là ga lần đầu tiên tôi ra Hà Nội học vào chiều tối
ngày 17-12-1975. Lần này tôi rời ga Thanh Hóa để đi Nam coi như kỉ niệm chuyến đi
dài cả nghìn km, lại một dịp đầu tiên trong đời.
Khoảng
30 phút sau, tàu xuất phát về phía Nam. Tôi tạm biệt ga và nhìn qua cửa sổ phía
Tây thấy ngay hình ảnh hòn Vọng Phu ở núi Nhồi. Thấy hòn Vọng Phu qua cửa toa
tàu chỉ một thoáng mà gợi cho tôi bao nhiều điều. Hòn Vọng Phu và một khối đá tự
nhiên ở núi Nhồi, Đông Hưng, Đông Sơn (nay thuộc thành phố Thanh Hóa). Hình
dáng Vọng Phu là bức tượng người đàn bà bế con nhìn về phương Nam, có cả con
chó đứng dưới chân. Vọng Phu trong các câu chuyện văn học là người đàn bà chờ
ngóng chồng đi Nam đánh giặc. Tôi nghe về chuyện những chàng trai xứ Thanh ngày
xưa từng đi lính vào Nam, về hàng vạn người con Thanh Hóa từng đi Nam trong cuộc
chiến vừa qua. Hòn Vọng Phu có lẽ đã in dấu trong bao chàng trai xứ Thanh đi
lính phía Nam như tôi trong hàng trăm năm mở cõi và giữ nước.
Nhìn
hòn Vọng Phu, sau này tôi có dịp quan sát kĩ hơn tình cảnh người đàn bà Thanh
Hóa và văn hóa làng xứ Thanh.
Xuyên
suốt chiều dài miền Trung, có biết bao nhiêu làng xã là người xứ Thanh định cư
khi mở cõi ở Huế, ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa… Họ
ban đầu là lính, sau khi quân dịch hoàn thành, vùng đất mới được giao canh giữ
để canh tác và bảo vệ. Rồi chúa Nguyễn quê xứ Thanh, rồi cuộc chiến Trịnh - Nguyễn
phân tranh… Ngày nay trên dải đất miền Trung không khó tìm những vùng có cư dân
Thanh Nghệ cư trú mấy trăm năm qua. Vọng Phu hóa đá là khi người đàn bà chờ
không thấy chồng về. Chồng của họ đã chết trong các cuộc chiến hay đã lấy vợ mới
khi định cư nơi xa ngái không về…
Hòn
Vọng Phu còn liên quan đến tục đa thê phổ biến ở xứ Thanh cho đến trước 1945.
Đa thê ở đây là cảnh người đàn ông lấy nhiều vợ và chung sống ‘êm thấm’ trong
gia đình nhiều vợ nhiều con. Đây là một trong những đặc điểm khác miền Bắc. Người
đàn bà xứ Thanh quen với cảnh “sản xuất nhân lực” cho các cuộc chinh phạt mở
cõi mấy trăm năm nên bản lĩnh nuôi chồng, nuôi con đi đánh giặc vốn đã in hằn
trong tình cảnh những người đàn bà cam phận đẻ cho chồng thật nhiều con trai. Bản
năng ấy không chỉ có giá trị gia đình mà còn có giá trị cho đất nước. Họ sẵn
sàng chung sống hòa thuận để ‘sản xuất’ được nhiều chàng trai mạnh mẽ cho các
cuộc chinh phạt phía Nam. Việc chung sống hòa thuận của 2 bà, thậm chí 3-4 bà
không thành vấn đề bởi lợi ích quan trọng hơn là có nhiều chiến sĩ ra mặt trận
cho sự nghiệp mở cõi của dân tộc Việt.
Có
dịp tôi sẽ kể thêm về ‘đặc trưng làng’ của xứ Thanh. Làng của xứ Thanh rất ít có
cổng làng. Tên địa danh ‘xá’ như Dương Xá, Đặng Xá, Lê Xá, Nguyễn Xá, Trần Xá,…
ở xứ Bắc cũng rất hiếm có. Làng của Bắc bộ có đặc trưng cổng làng, lũy tre và cấu
trúc đình-chùa-miếu-giếng-ao… cơ bản như nhau, nhưng làng ở xứ Thanh là kiểu “làng
mở’, không có cảnh đóng cổng ban đêm, làng không có ‘xá’ của một dòng họ mà
luôn có nhiều dòng họ chung sống, làng hướng ra mọi phía, sẵn sàng ‘ra-vào’
nghĩa là sẵn sàng xuất phát-rút lui. ‘Làng mở’ chứ không phải ‘làng đóng’. Đó là
cái rất khác lạ.
Đó
cũng là tính cách người xứ Thanh quảng giao khá rộng rãi với mọi người (nhưng không
chơi ăn ý lắm với ‘đồng hương’). Có dịp tôi sẽ bàn thêm về chuyện này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét