Thứ Sáu, tháng 10 04, 2024

Qua ga Thanh Hóa – cảm nhận Vọng Phu


Vào khoảng 2.00pm ngày 17-3-1981, tàu vào ga Thanh Hóa. Tại đây tàu thường dừng lâu vì có thể thay đầu máy hoặc bổ sung gì đó cho ca kíp công việc. Lúc này tàu đã đi được hơn 10 giờ nên câu chuyện ở các toa cũng ít dần, không còn huyên náo như hồi sáng.

Tôi xuống ga đi dạo một lúc cho đỡ chồn chân. Ga Thanh Hóa là nơi lần đầu tiên (hồi lớp 5) được ăn que kem ga. Đây là ga lần đầu tiên tôi ra Hà Nội học vào chiều tối ngày 17-12-1975. Lần này tôi rời ga Thanh Hóa để đi Nam coi như kỉ niệm chuyến đi dài cả nghìn km, lại một dịp đầu tiên trong đời.

Khoảng 30 phút sau, tàu xuất phát về phía Nam. Tôi tạm biệt ga và nhìn qua cửa sổ phía Tây thấy ngay hình ảnh hòn Vọng Phu ở núi Nhồi. Thấy hòn Vọng Phu qua cửa toa tàu chỉ một thoáng mà gợi cho tôi bao nhiều điều. Hòn Vọng Phu và một khối đá tự nhiên ở núi Nhồi, Đông Hưng, Đông Sơn (nay thuộc thành phố Thanh Hóa). Hình dáng Vọng Phu là bức tượng người đàn bà bế con nhìn về phương Nam, có cả con chó đứng dưới chân. Vọng Phu trong các câu chuyện văn học là người đàn bà chờ ngóng chồng đi Nam đánh giặc. Tôi nghe về chuyện những chàng trai xứ Thanh ngày xưa từng đi lính vào Nam, về hàng vạn người con Thanh Hóa từng đi Nam trong cuộc chiến vừa qua. Hòn Vọng Phu có lẽ đã in dấu trong bao chàng trai xứ Thanh đi lính phía Nam như tôi trong hàng trăm năm mở cõi và giữ nước.

Nhìn hòn Vọng Phu, sau này tôi có dịp quan sát kĩ hơn tình cảnh người đàn bà Thanh Hóa và văn hóa làng xứ Thanh.

Xuyên suốt chiều dài miền Trung, có biết bao nhiêu làng xã là người xứ Thanh định cư khi mở cõi ở Huế, ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa… Họ ban đầu là lính, sau khi quân dịch hoàn thành, vùng đất mới được giao canh giữ để canh tác và bảo vệ. Rồi chúa Nguyễn quê xứ Thanh, rồi cuộc chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh… Ngày nay trên dải đất miền Trung không khó tìm những vùng có cư dân Thanh Nghệ cư trú mấy trăm năm qua. Vọng Phu hóa đá là khi người đàn bà chờ không thấy chồng về. Chồng của họ đã chết trong các cuộc chiến hay đã lấy vợ mới khi định cư nơi xa ngái không về…

Hòn Vọng Phu còn liên quan đến tục đa thê phổ biến ở xứ Thanh cho đến trước 1945. Đa thê ở đây là cảnh người đàn ông lấy nhiều vợ và chung sống ‘êm thấm’ trong gia đình nhiều vợ nhiều con. Đây là một trong những đặc điểm khác miền Bắc. Người đàn bà xứ Thanh quen với cảnh “sản xuất nhân lực” cho các cuộc chinh phạt mở cõi mấy trăm năm nên bản lĩnh nuôi chồng, nuôi con đi đánh giặc vốn đã in hằn trong tình cảnh những người đàn bà cam phận đẻ cho chồng thật nhiều con trai. Bản năng ấy không chỉ có giá trị gia đình mà còn có giá trị cho đất nước. Họ sẵn sàng chung sống hòa thuận để ‘sản xuất’ được nhiều chàng trai mạnh mẽ cho các cuộc chinh phạt phía Nam. Việc chung sống hòa thuận của 2 bà, thậm chí 3-4 bà không thành vấn đề bởi lợi ích quan trọng hơn là có nhiều chiến sĩ ra mặt trận cho sự nghiệp mở cõi của dân tộc Việt.

Có dịp tôi sẽ kể thêm về ‘đặc trưng làng’ của xứ Thanh. Làng của xứ Thanh rất ít có cổng làng. Tên địa danh ‘xá’ như Dương Xá, Đặng Xá, Lê Xá, Nguyễn Xá, Trần Xá,… ở xứ Bắc cũng rất hiếm có. Làng của Bắc bộ có đặc trưng cổng làng, lũy tre và cấu trúc đình-chùa-miếu-giếng-ao… cơ bản như nhau, nhưng làng ở xứ Thanh là kiểu “làng mở’, không có cảnh đóng cổng ban đêm, làng không có ‘xá’ của một dòng họ mà luôn có nhiều dòng họ chung sống, làng hướng ra mọi phía, sẵn sàng ‘ra-vào’ nghĩa là sẵn sàng xuất phát-rút lui. ‘Làng mở’ chứ không phải ‘làng đóng’. Đó là cái rất khác lạ.

Đó cũng là tính cách người xứ Thanh quảng giao khá rộng rãi với mọi người (nhưng không chơi ăn ý lắm với ‘đồng hương’). Có dịp tôi sẽ bàn thêm về chuyện này.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét