Tôi
trở về Việt Nam
Gần 2 tháng tôi ở Campuchia, một hôm Hanh trở lại xưởng (sau 2 lần “được trốn về nước” thăm vợ mới), tôi bảo Hanh và Hạnh: Tuần sau tôi cũng sẽ về Việt Nam xem tình hình thế nào vì ở đây tôi chẳng thấy người ta xúc tiến công việc gì cho hoạt động của xưởng. Cả tháng nay mấy anh em thợ cũng chẳng thèm sửa chữa gì vì khi tôi hỏi thì anh em bảo không biết làm gì nữa với cái máy nổ này. Các anh em chưa bao giờ được học sửa cái máy to như thế. Máy không nổ được thì làm gì có chuyện người ta đưa lúc thóc đến để chà. Tôi sẽ về rồi xem ý của Phòng Sản xuất, Cục Hậu cần Việt Nam thế nào. Nếu cử thì tôi trở lại Campuchia thì tôi phải biết công việc của tôi ở đó là gì và phải có giấy tờ gì đó cho chính đáng cái công việc của tôi ở đây. Ông Kì Vân chỉ bảo tôi ở đây bằng một lệnh nói miệng, đâu có cụ thể là ở làm gì, bao lâu, để giải quyết công việc gì,… Hanh đồng ý với tôi, còn Hạnh thì không nói gì, nhưng tôi hiểu Hạnh cũng cho là phải.
Rồi
tôi lên Quân khu tiền phương tìm phương tiện về. Được biết mấy hôm nữa có chuyến
ô tô về Việt Nam qua lối cửa khẩu Châu Đốc. Tôi liền đăng kí đi theo. Gọi là
đăng kí nhưng chẳng phải làm gì, cứ hỏi đi từ đâu thì đến đấy leo lên xe về
thôi, chẳng ai kiểm tra hay yêu cầu giấy tờ gì cả.
Tuy
nhiên tôi nghĩ chỉ là kiểu “về phép” rồi lại qua trở lại nên không định làm “thủ
tục chia tay” gì với những người trong xưởng. Tôi nói với mấy anh em lính là
tôi sẽ có chuyến về nước. Em Mừng bảo hôm nay ra chợ mua mấy thứ về nhậu với Thủ
trưởng vài li chia tay, coi như Thủ trưởng được “đi phép”. Khi nào Thủ trưởng qua
nhớ mua cho bọn em mấy thứ quà quê nhé. Tôi cũng chẳng nhớ lắm bữa chia tay ấy thế
nào vì cũng nghĩ mình sẽ quay trở lại khi có giấy tờ chính thức và người ta sẽ
cử người sửa xong máy để chà gạo. Ai ngờ chuyến ấy tôi về hẳn và cho đến nay
tôi không hề gặp lại các đồng đội ngày ấy, kể cả em Hạnh, anh Hanh, chỉ còn mang
theo trong đầu những câu chuyện nay mới có dịp kể ra.
Xe
bộ đội về nước là chiếc xe tải cũ (không nhớ hiệu xe), tôi và dăm anh em ngồi
trên mui xe trần. Tôi nhớ quang cảnh ngồi trên mui xe nắng rát mùa khô, ngắm những
cánh đồng hoang khô cháy không bóng người bên Campuchia, những chùm cây thốt nốt
rải rác khắp cánh đồng. Vài cụm dân thưa thớt ít bóng người, những ngôi chùa nhỏ
có lùm cây xanh quanh chùa… Nói chung cảnh tiêu điều xơ xác và buồn tênh.
Xe
qua Châu Đốc thì tôi thấy ngay cảnh vui nhộn của người Việt Nam: chợ, sông nước,
ghe thuyền rất tấp nập, đông đúc. Trước khi vào sâu vào hướng về cần Thơ, tôi
thấy một khẩu hiệu đỏ chữ rất to treo bên cầu: Người dân An Giang ăn đủ
no để cả nước cùng no! Cái khẩu hiệu hay quá, nhắc đến người dân phía Bắc
khi đó đang đói ăn. An Giang là vựa thóc đang đóng góp đáng kể lương thực cho cả
nước. Tôi rất nhớ câu khẩu hiệu đơn giản và nghĩ nhiều về ý nghĩa giản dị mà có
tình. Tôi đã kể cảm xúc khi đó với rất nhiều người sau này, nhất là các em sinh
viên kinh tế nông nghiệp của tôi khi tôi còn đi dạy. Tôi thường liên hệ mỗi người
phải có ý thức tiết kiệm để phòng cái đói. Đói là bản năng đòi hỏi sinh tồn của
con người và của muôn loài. Giá trong đời không biết được cảm giác đói một đôi
lần thì tôi cho là quá thiệt thòi và ai đã từng biết cái đói thì có thể đã giàu
hơn về trí tuệ so với những người khác chưa từng bị đói rất nhiều[1].
Về
đến Cần Thơ đã tối muộn. Hôm sau lên báo cáo Thủ trưởng Hai Chước về chuyện tôi
đã về. Mọi người đều chào tôi đã về, nhưng lạ thay không ai hỏi gì về yêu cầu
tôi báo cáo tình hình tôi ở bên đó gần 2 tháng qua. Hay mọi người đã quên tôi rồi
nhỉ. Suốt thời gian tôi ở bên đó, tôi không nhận được thông tin gì từ Cục Hậu cần
và cũng không có được mệnh lệnh gì từ Phòng Sản xuất. Hay là tôi đã ở bên đó
quá lâu chăng? Tôi cũng chào ông Ba Kì Vân khi thấy ông đi qua, nhưng không thấy
ông ấy nói gì. Thế là xong (toi) một chuyến đi. Giá tôi (nói dại) có bị làm sao
bên ấy thì sao nhỉ? Nếu bảo tôi tìm cách trốn qua Campuchia thì cũng đúng, nay
bảo tôi bỏ đơn vị về thì cũng đúng chăng? Có lúc tôi nghĩ tại sao có những chuyện
thất lạc đơn vị (về giấy tờ), có chuyện “quy chụp nhau” khi cái lí đúng sai mờ ảo?
Trường hợp tôi cái gì đúng, cái gì sai. Mà buồn hơn cả là chính ông Hai Chước
hay anh Tâm cũng dường như đã quên tôi rồi… Ông Kì Vân thì tôi không dám bàn vì
ông ấy “bận những chuyện lớn” chứ đâu còn nhớ các chi tiết như đã cử tôi đi.
Chắc
chỉ có mấy anh em chúng tôi quan tâm chút. Mọi người hỏi tôi những câu chuyện
“bên ấy”. Nhưng tôi cảm thấy buồn nhiều và nghĩ chắc họ cũng hỏi để xem có gì lạ
chứ không phải là chuyện chính sự. Tôi đưa Bính cái đồng hồ và cũng không biết
Bính có thích nó không (nhưng từ đó tôi thấy Bính đeo cái đồng hồ SELKO 5 cho đến
khi ra quân). Rồi một hôm Bính có nói rằng cái xe đạp mới của tôi hôm bị chút
gì đó do hôm Dũng ở Cà Mau lên mượn đi, nhưng đã sơn lại như mới rồi. Những
chuyện đó tự nhiên tôi thấy không quan tâm lắm vì tôi cứ nghĩ đến thân phận người
lính bên kia, lại thấy tốt nhất là giữ yên trong lòng những cái mình thấy, mình
nghe.
Dạo
này bạn gái tôi ở Cần Thơ biết tôi sẽ quyết định ra Bắc nên cũng không còn thân
lắm và mấy tháng tôi ở bên Campuchia cũng không có làm được bài thơ nào. Có thể
nói chuyến đi công tác Campuchia để lại cho tôi nhiều chuyện nhưng đó cũng là
thời gian kết thúc cho câu chuyện bạn gái mấy năm qua của tôi.
À,
mà tôi phải nói là đây chính là lúc chúng tôi sắp được kết nạp Đảng. Tôi chỉ về
một thời gian ngắn là đến ngày kết nạp 27/1/1984. May thay chuyến đi Campuchia
và kết quả của chuyến đi có lẽ không liên quan gì đến hồ sơ tôi vào Đảng.
Nay
viết được những chuyện này, trong tôi vẫn không quên được anh Cứng, người dám bỏ
cả thủ trưởng ngồi bên đường đi kiếm phụ tùng cho đồng đội sửa xe – không quên
những món ngon dân Hoa kiều tiếp mời Thủ trưởng Kì Vân và chúng tôi, không quên
được những ngày ở bên đất bạn. Vẫn còn rất nhớ khuôn mặt và những câu chuyện của
em Hạnh – à, sau này Hồng có gặp tôi và nói cám ơn tôi đã giúp em Hạnh khi ở
bên Campuchia – của anh Hanh và 5 anh em ở phòng máy xưởng máy chà ven sông ngày
ấy.
Với
tôi, chuyến đi ấy đáng nhớ nhất trong các chuyến công tác của tôi khi ở QK9.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét