Chủ Nhật, tháng 4 13, 2025

Chuyến đi công tác Campuchia (kì 1)

Tôi được cử đi Campuchia để làm gì?

Từ sau khi về Cục Hậu cần, Phòng Sản xuất bắt đầu có nhiều việc “không nông nghiệp” trực tiếp như các công việc như mua bán vật tư, máy móc,… Vì thế chúng tôi không còn được đi công tác đến nông trường, nông trại ở các tỉnh nữa. Đổi lại, tôi được cử đi phụ việc mua máy Kubota ở Sài Gòn, rồi may mắn có được chuyến đi ngắn ngày lên Trại rắn Đồng Tâm. Có dịp tôi sẽ kể lại sau.

Khoảng cuối năm 1983, tôi có chuyến đi công tác rất đáng nhớ ở Phnom Penh. Một buổi sáng tôi được ông Chước báo mai Ảnh đi công tác với ông Ba Kì Vân. Hôm sau ra xe anh Cứng lái đã thấy có anh Thượng úy Quang. Xe đến khu gia binh sĩ quan đón ông Ba Kì Vân rồi đi lên Sài Gòn. Chiều đến khu vực Thủ Đức, xe đi vào nhà Đại úy Thủy. Chị Thủy năm trước là quân nhu Cục Kinh tế, hồi này chuyển đi đâu tôi không rõ. Chiều đó ăn nghỉ tại nhà chị Thủy. Chị Thủy có lẽ sống trong gia đình giàu có - một biệt thự sang trọng có vườn rất rộng. Buổi cơm chiều tôi còn nhớ gia đình thết mọi người ăn ngoài vườn, bên cạnh có nhiều cây xoài thấp và quả thì ríu rít quanh chỗ tôi ngồi, giơ tay ra là với được cả chùm…

Sáng chia tay gia đình đi lên Tây Ninh rồi qua Campuchia bằng lối cửa khẩu Xa Mát, bên Campuchia là tỉnh Svay Riêng. Trên đường đi gặp một xe của bộ đội Việt Nam hỏng máy nên anh Cứng[1] đã giúp sửa xe và vì thế đến đoàn Phnom Penh khá muộn. Tôi còn nhớ anh Quang đưa mọi người đến vào một khu nhà ở ngoại ô Phnom Penh, toàn những căn nhà đẹp của những người Hoa (sao hồi chiến tranh không bị phá nhỉ?). Ngôi nhà chúng tôi vào ở có ông chủ người Hoa to khỏe, da hồng hào, niềm nở đón. Một người Campuchia (có lẽ giúp việc) dẫn chúng tôi đi tắm (có phòng tắm hẳn hoi) và đưa cho mỗi người một cái xà-rông, tôi tắm xong quấn cái xà-rông ra ngồi ăn như mọi người thì được anh Quang khen chú mày giống y người Cao-miên. Mọi người cứ áo may ô quấn xà-rông ngồi ra bàn ăn.

Mặc dù đã khuya, có lẽ khoảng 11pm, nhưng chủ nhà đón khách niềm nở, thịnh tình lắm. Bữa ăn toàn món ngon tôi chưa từng được biết: canh vi cá, canh bóng cá,… vài món tôi không biết tên, nhưng chắc khó kiếm vì cái mâm bày trên bàn ăn sang trọng, đồ sứ mạ vàng sáng loáng. Cuộc sống quý tộc lúc ấy của người giàu Phnom Penh. Có một điều lạ nữa là mọi người đều nói được tiếng Việt cả.

Họ dẫn tôi và anh Cứng lên ngủ ở lầu 1 căn nhà bên cạnh, anh Quang và ông Kỳ Vân ngủ đâu tôi không rõ. Sáng dậy, anh Cứng bảo tôi nhà này toàn lát sàn và ốp tường bằng thân cây thốt nốt già. Cây thốt nốt chắc già lắm mới lấy được những mảnh gỗ từ thân cây chẻ ra rồi bào nhẵn thành những thanh gỗ rộng 3-4cm nhưng dài 4-5m. Màu gỗ đen bóng như sừng lát kín khít các khe ghép, đi chân đất lên thấy mát lịm. Anh Cứng nói ở Sài Gòn cũng có vài đại gia làm nhà kiểu này, nhưng khó kiếm gỗ lắm vì phải hạ những cây thốt nốt hàng trăm năm tuổi mới có vỏ cây đủ dày và cứng thành sừng như thế này…

Ăn sáng xong chúng tôi chia tay chủ nhà. Anh Quang dẫn chúng tôi đến một cơ sở chà gạo. Đó là một xưởng xay xát gạo có mặt tiền trên một đường lộ khá rộng rãi đi qua các khu dân cư, tuy có vẻ là ngoại ô nhưng cũng rất gần các khu phố của Thủ đô Phnom Penh. Mặt sau xưởng là sông Mê Kông rộng chừng khoảng 1 km. Mùa này nước nhỏ nhưng mùa nước lũ về chắc phải ngập rộng thêm nhiều. Bề ngang xưởng chà gạo rộng chừng 30m, bề sâu chắc cỡ 70-80m. Toàn bộ diện tích xưởng được lợp tôn và ốp tường cũng bằng những tấm tôn lớn. Khi chúng tôi vào, toàn bộ phía trước trống không, phía sau có 2 cây máy chà cao và gian buồng máy phía sau có cái ống khói thò ra ngoài xưởng phía đất trống sau nhà tôn.

Không có ai ra tiếp chúng tôi cả. Tôi nhìn vào phòng gần buồng máy thấy dăm cái giường bừa bộn quần áo dân sự. Có vài anh thanh niên quẩn quanh phía sau, không có ai ra chào hỏi gì, chỉ thấy tất cả đều đánh trần, vô cảm đứng nhìn chúng tôi.

Ông Ba Kì Vân nhìn một lượt, trao đổi gì đó với anh Quang một hồi rồi tuyên bố một câu bất ngờ: “- Ảnh sẽ ở lại đây, mấy hôm nữa sẽ có thêm người và khi sửa xong máy, Cục Hậu cần tiền phương sẽ đem thóc về chà để cấp gạo cho bộ đội QK9”.

Mệnh lệnh chỉ có thế và mọi người ra xe. Tôi lấy cái ba lô xuống rồi mọi người đi chào nhau, lên xe đi tiếp. Tôi nghĩ nay mai chắc sẽ có nhiều người đến tiếp quản xưởng rồi hoạt động tổ chức sản xuất. Còn tôi thì theo dõi hoặc nắm tình hình – kiểu như các chuyến đi tôi làm trợ lý vẫn được yêu cầu như thế.

Tôi vào thấy bên trong còn mấy cái giường trống, tôi chọn một cái gần với gian phòng máy cho mình ngủ. Nhìn phía sau xưởng thấy một khu đất nhỏ và một tường bao quanh xây cao và dày, có thể đi lại bên trên được vì ra phía sông thì đất thấp dần nên tường phải xây cao, còn ngay sau xưởng thì chỉ cao hơn 1m, rất dễ nhảy lên. Bên ngoài tường là bãi trấu lớn sát mé nước sông. Bãi trấu còn mới, chắc máy chỉ dừng hoạt động cách đây chưa lâu lắm.

Phía sau có 5 người lính Việt Nam cởi trần, không rõ cấp bậc gì. Một anh tên Mừng khá nhanh nhẹn chào hỏi và tôi được biết anh ta quê Đồng Tháp, người gốc Khmer, sống bên cạnh biên giới Campuchia nên nói giỏi tiếng Khmer và được cử sang đây như vai trò người phiên dịch. Bốn người còn lại là lính thợ cơ khí, biết việc sửa chữa và chạy máy. Hiện máy nổ đang hỏng và mấy cái máy chà cũng không hoạt động vì lâu ngày cũng chưa được bảo trì chăm sóc. Tôi vào buồng máy thấy giữa phòng là một máy nổ lớn chạy dầu, trên máy có ghi chữ Made in England rất đẹp bằng đồng đóng trên vỏ máy màu sơn xanh. Máy nổ dài khoảng 4-5m, chiều ngang chừng 1-1,5m, cao khoảng 1,5m đặt trên cái bệ bê tông vững chãi. Có mấy anh lính thợ đang ể oải tháo lắp lau chùi gì đó mấy chi tiết máy.

Phía bên ngoài buồng máy là 2 cây chà, cao chừng 7-8m, sát nóc xưởng. Tôi nhìn thấy chăng đầy mạng nhện và bụi, có lẽ cũng lâu ngày rồi chưa chạy. Tôi lại ra nhìn nơi phun trấu ra thì thấy đống trấu vẫn còn trắng vàng. Hỏi mấy anh lính thì không ai biết xưởng dừng hoạt động khi nào vì cũng mới được phân qua đây mươi ngày trước. Như vậy xưởng có từ khi nào, từng hoạt động ra sao, trước đây ai quản lý… đều không ai biết gì.

Bên phải xưởng có lối xuống sông, có bến tắm giặt và đỗ được tàu thuyền. Mặt sông rộng, nước chảy chậm, màu nước cũng như nước sông Hậu chảy qua Cần Thơ nhưng không thấy đám lục bình trôi. Phía bên kia bờ nhìn thấy những cọc nhô lên mặt nước, bên dưới chắc có những chà cây khô buộc vào nhau dưới xuống sông để cá dựa – một lối kiếm cá của người dân giống ở Việt Nam.

Từ hôm đó tôi ăn ở với 5 người lính ở đây, họ đều người Nam, tuổi chừng kém tôi chút ít nhưng đều rất ít nói chuyện với tôi mỗi khi tôi vào phòng máy hay khi cùng nhau ăn các bữa. Thú thật ngoài Mừng ra, tôi cũng không biết làm thế nào để nói chuyện với các bạn ấy.

Thế đấy, tôi được phân công bằng mệnh lệnh miệng hẳn hoi của Thủ trưởng trực tiếp, trước mặt những người cùng đi chuyến ấy. Mệnh lệnh đó chỉ rõ ràng một điểm là tôi được phân công ở lại cái xưởng chà gạo này. Nhưng tôi ở lại làm gì, phải thực thi nhiệm vụ gì thì có lẽ không ai biết (có lẽ cả người ra mệnh lệnh cũng không biết!).

Sau này nhiều khi tôi nghĩ rằng ở chiến trường thì người lính có nhiệm vụ chung là chiến đấu, nhưng mỗi trận đánh thì mỗi người được phân công nhiệm vụ cụ thể. Nhưng có cụ thể đến đâu đi nữa thì không ai lường được các tình huống trước khi đánh trận. Tôi đi công tác lần này cứ hình dung ra là mình được giao nhiệm vụ trong một tình huống phát sinh mà Thủ trưởng tin rằng mình có thể hoàn thành.

Các kì tiếp theo tôi sẽ ghi chép ra những chuyện chúng tôi đã ở đây một cách chân thực để mô tả chi tiết cuộc sống của người lính bên đất bạn Campuchia.

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét