Thứ Tư, tháng 4 09, 2025

Các chuyến đi Minh Hải (kì 2)

 

b/ Chuyến đi U Minh hạ

Một hôm ông Chước đi họp giao ban Cục Kinh tế về nói tại buổi họp Phòng Sản xuất: “- Quân khu giao cho Cục Kinh tế chuẩn bị khảo sát vùng nguyên liệu làm giấy ở U Minh”. Chuyện có vẻ nói cho vui thôi, chẳng ai chú ý gì đến các chi tiết. Thế rồi một hôm, khoảng tháng 11/1982, tôi được ông Ba Kì Vân báo chuẩn bị đi công tác cùng Trung tá Sáu Mẫn. Hôm đi tôi thấy có cả anh Sơn – Sơn là hạ sĩ quan-kĩ sư ngành nông nghiệp ĐH Cần Thơ vào Cục Kinh tế hồi đầu năm 1981, sau chúng tôi vài tháng.

Ông Sáu Mẫn cỡ tuổi trên 50, hàm trung tá, là cán bộ lãnh đạo Trường Quân chính QK9 mới chuyển về Cục Kinh tế từ cuối 1981. Ông được biên chế ở Phòng Xây dựng cơ bản nhưng chỉ là cán bộ thường, không phải trưởng hay phó phòng. Nghe mọi người nói ông sắp về hưu nên xin được chuyển từ Trường Quân chính ở An Giang về Cần Thơ cho gần gia đình. Ông hiền lành, ít nói và nói giọng hơi nhỏ. Vì ông là sĩ quan cao cấp, lại ở Phòng khác nên tôi chưa từng gặp hay nói chuyện với ông trong khi ở Cục. Lần này được đi công tác với ông tôi cũng dè dặt và lắng nghe những yêu cầu của ông, như người trợ lí thừa hành mệnh lệnh trong chuyến đi.

Còn anh Sơn thì tôi cũng chỉ biết anh về Phòng Nông nghiệp cùng đợt với Đúp và một số anh em binh sĩ-kĩ sư khác từ ĐH Cần Thơ. Thường cũng chỉ chào hỏi mỗi lần gặp nhau chứ không có điều kiện biết nhiều về anh. Hôm đi công tác tôi mới biết anh học ngành trồng trọt và là người gốc thành phố Cần Thơ. Sơn cũng hiền lành, ít nói và không chơi trò thể thao gì vào các buổi chiều. Nhìn dáng cao to, khuôn mặt tử tế có đôi mắt to hơi trố trên cái trán rộng, tôi có cảm tưởng cái đầu của Sơn cũng hơi quá khổ một chút và cái miệng cười cũng ấn tượng nhưng cứ thấy có gì không hợp với đôi mắt to của anh.

Chuyến đi này không có xe đưa đi, cả 3 chúng tôi ra bến mua vé xe đò đi Cà Mau. Đến Tỉnh đội Minh Hải, ông Sáu Mẫn đi gặp Ban chỉ huy Tỉnh đội và được biết Tỉnh đội sẽ cấp cho chúng tôi một ghe máy để đi vào rừng U Minh, nhưng không có người lái ghe. Ông Sáu Mẫn nói thế cũng được vì Sơn biết lái ghe là đủ rồi, nếu cần thì ông cũng có thể lái. Tất nhiên là tôi không biết món cầm lái ghe máy rồi. Tối hôm đó ngủ tại nhà khách Tỉnh đội, sáng ra bến sông gần đấy đã thấy Sơn nhận một ghe máy nhỏ và một can xăng dầu. Thế là Sơn nổ máy cầm lái để đưa đoàn đi.

Ghe đi khoảng gần trưa thì nghỉ ghé ăn cơm dĩa trên một chợ quê nào đó ven sông. Ghe đi tiếp trên sông Ông Đốc, sông đổ ra cửa Ông Đốc thuộc vịnh Thái Lan là cửa biển trọng yếu của tỉnh Cà Mau, là dòng sông huyền thoại đi vào lịch sử của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Thỉnh thoảng ông Sáu thay Sơn cầm lái, nhưng Sơn lái là chính. Thú thật đến nay tôi chỉ nhớ chuyến đi đó là đến huyện Trần Văn Thời nhưng không rõ đến xã nào. Chạy ghe trên sông Ông Đốc đến gần cuối buổi chiều tối thì rẽ vào một rạch nhỏ rất vắng người. Sông Ông Đốc đoạn gần biển rất rộng nhưng khi vào một nhánh của nó thì nhỏ dần rất nhanh và rất vắng ghe tàu qua lại. Hai bên rạch đều là rừng nguyên sinh. Trời tối khá nhanh và ghe chạy chậm lại vì không trông rõ phía trước. Ông Sáu nói đi chậm chút và xem chỗ nào có nhà dân thì vào hỏi và ngủ nhờ. Đi mãi mới thấy bên bờ rạch có buộc mấy ghe nhỏ, chắc chắn bên trong có nhà dân. Ông Sáu nói Sơn ghé lại để ông lên bờ hỏi tình hình.

Sơn buộc ghe bên rạch và ngồi nghỉ, còn tôi theo ông Sáu đi vào bên trong. Có mấy căn nhà nhỏ tối thui bên bìa rừng, bên trong có tiếng đàn văng ra. Ông Sáu và tôi mò mẫm bám theo bờ rạch và theo các cây bên rạch đi vào. Đến rất gần thì thấy có ánh đèn bên trong. Ông Sáu bước vào hỏi han một chặp rồi quay ra bảo tôi nói Sơn buộc ghe lại rồi vào nghỉ.

Khi tôi và Sơn vào thì thấy ông Sáu đang ngồi với một ông khoảng hơn 30 tuổi, cả 2 đang ngồi trong màn nói chuyện. Bên cạnh ông ta có cây đàn cải lương và ngọn đèn nhỏ treo trên cột. Ông Sáu giới thiệu chúng tôi với chủ nhà và được biết đây chính là nhà ông xã đội trưởng. May quá, đi đêm tối mà gặp được đúng người cũng thuộc bộ máy quân sự địa phương thì còn gì bằng. Thế là ông ấy đi gọi mấy người đến nói chuyện, nấu cơm và nhậu cùng chúng tôi.

Tôi và Sơn không biết làm gì chỉ nghỉ ngơi nghe chuyện, nhưng cũng phải ngồi trong cái màn để tránh muỗi. Muỗi ở đây ghê lắm, ngồi nói chuyện hay ăn uống cũng đều phải chun vào cái màn rất to, nhưng chỉ cho đỡ muỗi thôi chứ loại màn đó thì muỗi cũng có rất nhiều lối vào trong. Một loáng cái đã có đồ nhậu là những con cá nấu chua rất ngon, chắc họ lấy cá đã kiếm sẵn để trong lu hay trong lưới dưới các rạch. Mấy anh em địa phương vui vẻ lắm và tỏ ra hiếu khách nhưng ông Sáu Mẫn không nhậu được và cả 3 chúng tôi đều mệt vì đi từ sáng nên mọi người uống với nhau một hồi rồi giải tán sớm. Các vị chủ đều tiếc vì mấy khi có khách quý đến từ Quân khu mà không có dịp được “xổ ra” dăm câu chuyện kiểu bác Ba Phi[1] hay ca mấy câu cho bõ những tối vắng vẻ ở đây.

Sáng hôm sau dậy ăn sáng thì lại thấy mấy ông hôm qua có mặt. Thì ra đây chỉ có mấy gia đình ở bên nhau nên khách của một nhà chắc cũng là khách của mọi người. Ông Sáu Mẫn hỏi han tình hình và ăn sáng với mồi nhậu vẫn là toàn cá, mỗi bên lai rai mấy li rồi chúng tôi chia tay ra ghe đi tiếp. Chắc mấy ông ấy còn ngồi với nhau đến trưa. Tôi có nhớ một anh tối trước nói với chúng tôi rằng cụm dân này có 3 gia đình. Anh nhấn mạnh 3 gia đình mà mé rạch chỉ có 2 ghe buộc ở đó. Rồi một anh giải thích hôm trước nhậu ở đây có vị khách muốn xin 1 ghe và mọi người ở đây đã cho đi 1 cái rồi. Nhậu với nhau mà cho nhau cả cái ghe đi thì biết rồi đấy, quý nhau đến thế là cùng. Ghe ở đây là phương tiện đi lại chủ yếu mà còn biếu cho nhau!

Đi sâu thêm chừng hơn 1 giờ thì chúng tôi đến một cụm có chừng mươi hộ dân. Ông Sáu Mẫn bảo ghé vào và đi lên một mình. Tôi với Sơn ngồi lại nói chuyện và khi đó tôi mới biết Sơn là dân phố nên chỉ biết cầm lái ghe “lẹt quẹt loanh quanh” chứ chưa bao giờ đi xa như thế này. Sơn cũng nói chưa từng biết xứ rừng U Minh, nay mới có dịp đến. Một lúc sau ông Sáu đi cùng một ông còn trẻ nói là anh cán bộ ấp sẽ dẫn đường vào sâu trong rừng để chúng tôi khảo sát vì ở đây các con rạch đi vào mà không có người dẫn thì có khi bị lạc đường. Và ông nói tối nay đoàn sẽ ngủ ở đây, sáng mai sẽ quay ra Tỉnh đội.

Lúc này anh cán bộ thay Sơn cầm lái ghe đi sâu vào rừng. Trời sáng nhưng ghe đi trong bóng cây hai bên rạch che kín, có chỗ như chui qua các vòm cây. Ái chà, mạo hiểm ghê. Nước dưới ghe thì có vẻ như màu hơi tối nâu và như không chảy, lại có rất nhiều cá, có chỗ bèo che kín mặt con rạch nhỏ. Vào đến chỗ rất khó đi thì anh dẫn đường nói từ đây có thể lội bộ sâu vào một chút để thấy sự nguyên sinh của U Minh hạ.

Chúng tôi buộc ghe và xắn quần lội lên vào rừng. Chẳng có vẻ gì là khô cả, toàn nước dập dềnh bên dưới rất dễ thụt xuống. Đa số phải bám vào cây mà đi. Ông Sáu Mẫn bảo chúng tôi cần ước tính mật độ cây cối. Tôi bắt đầu chú ý thấy cây cối chẳng rõ thể loại gì rõ nét, có đước, có tràm và có vô số lau lách. Tôi và Sơn cùng ước thử sinh khối có thể thu hoạch nếu là lau lách, là đước hoặc là tràm. Khi đó tôi nghĩ chắc loại cây nào cũng có thể làm bột giấy được. Ông Sáu Mẫn không có ý kiến gì, Sơn thì cũng chỉ rành vài thứ cây trồng nông nghiệp chứ không biết rành về rừng, còn tôi là dân kinh tế nông nghiệp nên cũng tịt nốt. Cũng may là tôi cứ nhẩm cách tính sinh khối trên m2 rồi sơ bộ tính ra số diện tích đông đặc theo nhóm cây trên 1ha để từ đó xác định được khối lượng nguyên liệu có thể cung cấp cho nhà máy giấy. Đại loại thế, cứ phải ước chiều cao theo nhóm cây, ước mật độ tự nhiên rồi quy ra đông đặc… Hóa ra cả 3 người thì chỉ có tôi biết cách làm này để xác định khối lượng sinh khối rừng nguyên liệu.

Khoảng hơn một giờ trong rừng, chúng tôi quay ra ghe để về, tất nhiên tôi có những ghi chép được một số tư liệu để về viết báo cáo. Đến trưa, anh cán bộ dẫn đường bảo chúng tôi ghé ăn trưa ở một hộ dân lẻ sâu trong rừng. Anh ta nói ông chủ hộ dân ra ở đây chủ yếu kiếm ăn bằng nghề rừng, nhất là nghề lấy mật ong rừng. Vào đến nơi, ông ấy rất ngạc nhiên thấy chúng tôi đến, rồi lại vừa nói chuyện vừa câu kéo, một lát đã có cá và lươn cho bữa ăn. Thì ra ở đây từ hôm qua đến nay tôi mới biết dân lấy cá dưới rạch lên ăn hàng ngày dễ như lấy cá trong lu nước. Chà chà, thiên nhiên ưu đãi quá ở xứ U Minh này. Có một điều tôi nhận thấy là những con lươn ở đây to và ngắn chứ không bé dài như con lươn quê tôi. Nếu ngồi trên ghe nhìn xuống thì thấy rất nhiều lươn cá lượn lờ bên dưới các gốc cây đước và hệ cây rừng um tùm rễ dưới nước, họ thả câu bắt cá dễ quá vì cá lươn có rất nhiều.

Chiều lại ra một cánh rừng khác để khảo sát thêm nhưng đại loại vẫn như thế, cây nhiều chủng loại, đất rừng như ngập nước nhiều chỗ có sình lầy. Kênh rạch không rõ lối, đúng là rất dễ lạc nếu không có người dẫn đường.

Chiều về nghỉ ở cụm dân nhiều hộ lúc ông Sáu Mẫn vào buổi sáng. Chúng tôi được mời nghỉ lại ở 2 nhà dân cạnh nhau. Tôi và Sơn đi vào một nhà sâu bên trong và thấy lạ quá, cả một con bò và heo đều ở trong màn. Lúc chúng tôi vào nhà thì trời con sáng mà mọi người đều ngồi trong màn nói chuyện với nhau vì đàn muỗi đã bắt đầu hoành hành. Ăn tối khi trời còn sáng để hạn chế muỗi. Mọi người ngồi ăn cùng mâm cơm không có màn. Lại canh cá chua với những con cá bắt ngay tại rạch nước sau nhà, rượu thì có vẻ ít hơn và mọi người ăn cũng khá nhanh, không lai rai như ở nơi khác. Ông Sáu Mẫn mệt đi qua nhà phía trước ngủ. Bữa cơm chiều ăn xong sớm, không có nhiều chuyện đáng nhớ.

Buổi tối bắt đầu mưa - mưa rừng. Ông chủ nhà bảo đây là những cơn mưa muộn cuối mùa, có năm có, năm không vì mùa mưa ở xứ này thường từ tháng 4 đến tháng cuối tháng 10. Lần đầu tiên tôi biết mưa rừng. Mưa liên miên gần như suốt đêm trong sâu thẳm của rừng U Minh hạ. Tôi có cảm giác lạ lắm và thấy khó ngủ. Chủ nhà treo bên cột cây trong nhà một cái đèn dầu nhỏ tẹo để thấy đường đi lại. Đêm ấy ở đây tôi còn giữ 3 cảm giác rất rõ: Một là tiếng mưa rừng rơi trên cây và mái nhà lá dừa nước. Nó nghe cứ rì rào, không có gió, không có tiếng giọt mái hiên trên nền sân gạch như mưa ở Bắc. Mưa dai dẳng quá, ít khi dứt tiếng mưa. Hai là tiếng cá quẫy bên nhà ngay sát chỗ nằm của chúng tôi. Ái chà, cá quẫy hung, có phải vì mưa mà chúng kiếm ăn hay vui mừng gì mà quẫy suốt đêm, quẫy có đàn, có lẻ, mạnh và rào rào như đuổi nhau. Ba là tiếng muỗi – đúng là muỗi kêu như sáo[2]. Hàng ngàn con bay lượn trong nhà quanh màn tạo ra tiếng u réo, u réo rất dày và rất chói. Tiếng chói khó chịu xói vào tai, vào tận óc. Cả 3 âm thanh đêm đó cứ thấy thật rõ, thật rộn mỗi khi tôi nghĩ về cái đêm mưa rừng năm ấy.

Ở cụm dân này người ta quần tụ với nhau không hẳn là trên bờ rạch vì toàn nước ngập quanh nhà. Nhà làm trên những cái cọc gỗ tràm, gỗ đước đóng xuống nước, bên trên chỉ như những cái chòi nhỏ. Tuy nhiên trong cụm hộ cũng có những con đường nhỏ tí vừa lối đi cho người và trâu bò ra ruộng canh tác. Có một việc cũng cần phải kể: ở đây người ta cũng làm cái “nhà cầu” bé tí bên rạch, rất khó đi lại nhưng cũng rất gần nhà. Chuyện đi cầu ban đêm thì thật kinh khủng. Tôi chỉ đi giải thôi mà khi ra khỏi nhà cứ như phải rẽ muỗi mà đi, hai tay gạt tứ phía, thấy chỗ nào cũng gặp những vật nhỏ trong không khí. Giá nếu có đi cầu mà ngồi dăm ba phút thì làm sao xua hết những bầy muỗi rừng ào ào lao đến bám đầy những chỗ hở trên da thịt người? Nhưng chuyện đỉa hay vắt ở U Minh thì tôi lại không thấy trong chuyến đi này. Có lẽ tôi đến không đúng mùa hay không đúng vùng nhiều đỉa, vắt?

Đêm đó tôi rất khó ngủ vì tôi nghe mưa, nghe cá quẫy và nghe muỗi, nhưng vì không ngủ được nên cũng đã làm được một bài thơ và còn giữ được cho đến ngày nay. Bài thơ “Lòng anh đêm nay” còn ghi rõ U Minh, thứ sáu, 5/XI (xem ảnh).

Sáng dậy, mọi người kéo nhau đến nhà một ông già ăn sáng, uống trà rồi chia tay. Gọi là quán thì không đúng vì ở đây không có quán nhưng có lẽ chỉ có nhà ông mới có trà. Ra đấy có nồi cháo cá, chắc mọi người nhờ ông nấu hộ. Ăn bát cháo nóng, uống trà và để nghe ông nói chuyện. Ông nhỏ thó, vui tính, hay nói hay cười. Ông gọi vợ ra phụ ông dọn dẹp, pha trà. Ông giới thiệu tên bà là bà Răng-ghét. Lạ ghê, tên như người nước ngoài. Một cái ấm bé tí xíu màu đen và cọc cạch li và chén các loại đủ cho mỗi người cầm một cái trên tay, nhâm nhi cái mùi trà cất kĩ để lâu năm. Ai cũng thấy sao sang quá, ngon quá… Ông chỉ cái radio nói: nó là bạn thân nhất của tôi, nhưng nhiều khi nó cũng ghét tôi nên chọc mãi mà nó không chịu nói. Tôi nhìn thấy cái radio cũ kĩ không biết của nước nào và cũng không còn rõ màu gì. Lúc này nó đang o ẹ phát tiếng nói Việt Nam. Tiếng sột sột xen kẽ tiếng phát thanh viên khi nghe được khi không. Cái radio đó có buộc theo mấy cục pin to bọc trong mấy cái lá rừng để cạnh bếp cho đỡ ẩm và dễ bắt sóng hơn… Rồi ông giải thích bà vợ Răng-ghét của ông nghĩa là bà bị răng ghét nên rụng hết nay móm mém cả hàm… Cả nhà cùng cười, ôi cái cười móm mém của bà…

Chúng tôi chia tay những người dân chất phác đã cho chúng tôi ăn và ngủ 2 tối ở đây. Lại Sơn cầm chèo nổ máy cho ghe đi. Tôi nhìn màu xanh tối của U Minh để cố nhớ thêm những cảm giác mình còn nhớ khi chia tay nơi này. Ra đến một xóm chợ ghé ăn trưa, chợ còn đông người và nhìn cũng tấp nập. Ăn xong ông Sáu Mẫn bảo Sơn kiểm tra xăng dầu rồi về. Bỗng nhiên cái Kolher cũ trở chứng, Sơn giật mấy lần không nổ. Sơn cứ loay hoay mãi không biết làm sao. Ông Sáu Mẫn bảo để ông thử. Ông sờ mó cái gì đó một hồi rồi đứng lên giật dây nổ máy. Ông giật mạnh quá nên vung tay làm rớt cái kính đang đeo trên mắt xuống sông. Ôi, thế là mất kính của ông Sáu rồi. Nhưng máy thì vẫn chưa nổ. Ông giật lại lần 2 thì máy nổ được. Rõ ràng ông đã có những kinh nghiệm về máy móc ghe thuyền và sông nước. Từ đó lên Cà Mau ông không còn kính để đeo, không rõ ông nhìn sông nước thế nào?

Chúng tôi trả lại ghe cho Tỉnh đội, ngủ lại ở nhà khách Tỉnh đội 1 đêm nữa rồi hôm sau bắt xe đò về Cần Thơ. Mấy ngày sau, chúng tôi đến báo cáo Thủ trưởng Ba Kì Vân. Chuyện báo cáo thì ông Sáu đã giao cho tôi chuẩn bị. Vì tôi đã ghi chép đầy đủ khi đi khảo sát nên tôi đã kịp làm một báo cáo có ghi chép cơ bản như cách xác định sinh khối có thể thu hoạch/ha của lau sậy, của đước, của những cây rừng đại diện để quy ra sản lượng có thể thu hoạch nguyên liệu làm bột giấy tính ra sản lượng. Đại loại thế, nào là diện tích ước tính, nào là quãng đường từ kênh lớn vào trung tâm khu nguyên liệu, nào là phương tiện vận chuyển bằng ghe nhỏ… Khoảng 7-8 trang báo cáo tôi tóm tắt trình bày. Ông Ba Kì Vân nghe và không nói gì cả. Cả ông Sáu Mẫn và bạn Sơn cũng không thêm bớt gì. Buổi đó có cả anh Tâm ngồi dự. Hôm sau anh Tâm bảo tôi đưa hết giấy tờ để anh tập hợp lại cho Cục. Anh chỉ nói Ảnh viết thế là khá rõ rồi, chỉ là báo cáo sơ bộ thôi vì còn phải làm một dự án chi tiết cẩn thận như nhà máy bột giấy đặt ở đâu, phải xây dựng cơ bản những công trình gì, thu hoạch cây rừng thì có ảnh hưởng gì đến tái sinh rừng và bảo vệ rừng… Đại loại thế, coi như chúng tôi xong công việc của chuyến đi. Anh Tâm cũng bảo nhỏ tôi là ông Ba Kì Vân có khen chung cả nhóm vì đã làm được những yêu cầu của Cục về khảo sát vùng nguyên liệu sản xuất bột giấy. Ông sợ rằng nhóm đi mấy ngày rồi về cũng chỉ khơi khơi báo cáo cho qua chuyện…

 c/ Các chuyến đi cùng cán bộ Tỉnh đội Minh Hải

Tôi có những chuyến đi đến Tỉnh đội Minh Hải đóng ở Cà Mau. Tỉnh Minh Hải khi đó có 3 NTQĐ là Khánh Hải, Khánh Hà và Đông Hà, nhưng tôi chưa được phân công tới. Tôi được đi cùng với cán bộ Tỉnh đội Minh Hải đến nông trại Giá Rai và nông trại Cái Nước.

Ở huyện Giá Rai tôi nhớ có gặp một anh cán bộ Phòng Nông nghiệp huyện tên là Chính. Anh Chính học KTNN của ĐHNN I khóa 19, trước tôi 1 khóa, quê anh ở Hưng Hà, Thái Bình. Anh được phân công về huyện từ ngay sau khi ra trường. Vì tôi chỉ ghé qua trên đường đi, không ngủ lại nên tôi không nhớ được các chi tiết chuyến đi này kể cả những câu chuyện đã trao đổi với anh Chính. Anh Chính có đặc điểm rất dễ nhớ là anh cười hở cái lợi hơi nâu đen, tôi chỉ nhớ anh có vẻ khá hài lòng với công việc anh đang làm và cuộc sống ở đây, nhất là vật chất (ăn uống). Có lẽ anh so với miền Bắc khi đó đang khó khăn, cán bộ còn đói ăn và thiếu mọi thứ.

Chuyến đi Cái Nước (tôi cũng không nhớ rõ), chỉ biết có đi ghe máy Tỉnh đội cùng một số người, buổi trưa ăn uống gần chợ Cái Nước. Trong lúc anh em còn nhậu thì tôi ra cạnh bờ sông nằm trên cái võng ngắm mấy cây đước có rất nhiều rễ và những con còng đỏ bò trên bộ rễ cây…

Như đã nói ở phần đầu, ở Tỉnh đội thì tôi có biết Lê Tiến Dũng (ĐHNN II) và Bính (ĐHNN I). Bính học ngành trồng trọt khóa 20, Bính có cái máy ảnh và chụp “có nghề” nên tôi vẫn còn giữ được một tấm hình chụp chung với Dũng. Với Dũng thì tôi có nhiều kỉ niệm ở đây như cùng đi ăn cháo cá quán bà Tư Ù, đi chợ mua cá rô về nấu ăn với nhau, Ở Tỉnh đội Minh Hải tôi còn nhớ có anh Ba Sừ, một cán bộ đi lính rất lâu năm, nghiêm túc, mẫn cán với công việc mà chỉ có quân hàm Thượng úy. Anh có dáng người to béo nhưng rất tiết kiệm, đi công tác Quân khu chỉ cần mấy củ khoai lang là đủ.

Ở Tỉnh đội Minh Hải, tôi và Dũng có bữa nhậu với “chúa đảo Hòn Khoai” – một anh trung úy (nay không còn nhớ tên) từ Hòn Khoai về Tỉnh đội công tác. Mỗi khi “chúa đảo” uống xong, anh bắt tay mọi người (thực ra là bóp tay) không rời ra được. Ai cũng nhăn mặt vì cái bóp tay mạnh mẽ của anh. Dũng nói nhỏ với mọi người rằng vị “chúa đảo” ấy hơi “bất bình thường” mỗi khi uống rượu nên khuyên mọi người đừng mời riêng với anh ấy.

Tại đây, có lần tôi và Dũng đi từ Cà Mau lên Bạc Liêu dự đám cưới của Tuất – Ngọc Hoa. Ngọc Hoa thì tôi quen vì cùng học ĐH Cần Thơ với các bạn gái tôi, còn Tuất thì tôi cũng đã gặp ở Cần Thơ khi tôi đến dự sinh nhật Ngọc Hoa. Các bạn cưới nhau khi Ngọc Hoa chưa kịp tốt nghiệp Đại học. Tuất là hạ sĩ quan-kĩ sư (ĐH Tài chính Hà Nội) cùng vào đợt với chúng tôi. Có điều kiện tôi sẽ viết về đám cưới này cùng những lần gặp Tuất ở Cà Mau, ở Hà Nội, ở Thành phố Hồ Chí Minh sau nhiều năm ra quân.

  

*

*   * 

Vài ý kết

Được đi công tác với tôi bao giờ cũng là niềm vui hơn là ý thức nhiệm vụ. Các chuyến đi Minh Hải luôn để lại trong tôi những tình cảm vui nhẹ nhàng, thanh thản vì những gì mình thấy đều mới, đều nhiều cảm xúc. Đến Minh Hải là đến với những hình ảnh mà tôi đã đọc nhiều lần cuốn “Đất rừng phương Nam” của Đoàn Giỏi. Thêm nữa, đến với Minh Hải tôi không bị ám ảnh bởi cái nghèo, cái khổ của con người xứ này bởi thiên nhiên có nhiều ưu đãi quá. Người dân chung sống với thiên nhiên mà không có cảm giác chịu đựng gian khổ: nhiều muỗi thì ngồi trong mùng nói chuyện với nhau, buồn thì có cái đàn tưng tửng, nhậu thì có chuyện bác Ba Phi để dzóc… Thiên nhiên cho họ cái bản tính hào sảng phóng khoáng, họ thật xứng đáng là chủ nhân của đất và rừng xứ này.

 

Bài thơ viết tại U Minh đêm thứ 6, ngày 5-11 năm 1981

Lê Hữu Ảnh và Lê Tiến Dũng trong doanh trại
tỉnh đội Minh Hải - người chụp là Bính
 



[1] Vùng này nghe nói ai cũng dzóc được như bác Ba Phi.

[2] Có câu “U Minh muỗi vắt bùn lầy/ Muỗi kêu như sáo, đỉa nhào bánh canh”. Sau này có bài hát “Muỗi kêu mà như sáo, đỉa lềnh tựa bánh canh”… Năm 2001, tôi có dịp đi công tác Cà Mau, chúng tôi đi ghe máy cao tốc xuống Đất Mũi, nhưng tôi vào rừng đước Năm Căn thì tôi không còn thấy cảm giác muỗi như hồi tôi đi rừng Trần Văn Thời gần 20 năm trước.

1 nhận xét:

  1. Trần Giang: Bài viết này rất hay, như kể lại câu chuyện mới hôm qua, đây là bài viết có nhiều dữ liệu sống động nhất lột tả được cuộc sống hoang dã của người dân nam bộ thập niên 80 thế kỷ 20 và sự giao thoa giữa người lính trí thức thời bình dưới sự lãnh đạo của các sếp vừa bước ra từ cuộc chiến khốc liệt nhưng không được học hành...

    Trả lờiXóa