Chủ Nhật, tháng 5 25, 2025

Nhìn lại những năm tháng quân ngũ

  

“Có lần, một thầy giáo già hỏi tôi rằng hồi mấy năm đi bộ đội anh có được những gì? Tôi bỗng trả lời ngay rằng nhờ những năm tháng đó mà tôi đã có được tất cả những gì tôi có hôm nay”!


Nhìn lại những năm tháng quân ngũ ở Quân khu 9, các chuyến đi công tác đến các đơn vị quân đội làm kinh tế, các giao tiếp và sinh hoạt với xã hội và người dân phương Nam, tôi thấy có quá nhiều điểm lí thú. Có thể tạm tổng quát lại thành 4 điểm chính: Một là, tôi được thỏa cái nguyện đi-lại (xê-dịch) của tuổi trẻ: mỗi lần xách cái ba lô ra khỏi doanh trại như một dịp được biến thành cánh chim tự do khám phá, ngắm nhìn những điều mới lạ để nhận biết, cảm thụ và từ các trải nghiệm tích tụ thành chiêm nghiệm. Hai là, được đến với miền đất trù phú, phì nhiêu, hào phóng của thiên nhiên và sự hào sảng của con người sinh ra trên miền đất ấy. Chính sự hào phóng của thiên nhiên đã tạo nên con người hào sảng xứ này. Ba là, thấy bao nhiêu điều lạ, điều chưa từng được biết kích thích sự tò mò, ham hiểu biết và Bốn là, thấy rõ thực chất làm kinh tế của quân đội (như một số ghi chép tôi trong blog[1]).

Tạm gọi đó là những tổng quát nho nhỏ của những năm tôi ở đây, nhưng trong li ti cuộc sống có vô vàn các chi tiết đáng nhớ, đáng yêu…

Thứ Tư, tháng 5 21, 2025

Chia tay một thuở


Gọi là một thuở với Trần Hữu Giang – Lê Hữu Ảnh – Lê Cao Bính, nhưng là tới gần hết 9 năm trời. Một thuở trẻ trai ngờ ngệch!

Vào những tháng của mùa thu 1984, chúng tôi xuất ngũ nhận công tác ở những miền đất mới. Cũng từ đó, chúng tôi thực sự chia tay cái thuở “chung sống” cùng nhau. Riêng tôi nghĩ, sự chia tay đó tất yếu phải đến. Việc chia tay đó là duyên phận một thời và rất may là lại chưa thể “hết duyên” với nhau.

Rõ ràng thời cuộc tạo ra duyên phận của chúng tôi. Tôi đã dành hẳn một chuyên mục dài (Page: Thời cuộc và duyên phận với các Label dự định viết 6 mục lớn[1]). Sau khi đã viết được vài chục bài lại thấy rằng: thật khó để tách một sự kiện nào đó trong 9 năm ra khỏi chúng tôi vì hình như chúng tôi đều có mặt tham dự hoặc chứng kiến. Nhưng cái lạ là sau khi đã “mỗi người mỗi ngả” thì vẫn có rất nhiều sự kiện lại vẫn như đang có cùng nhau! Tại sao vậy? Đó là câu hỏi cần tiếp tục lí giải thêm, hay cái duyên vẫn đang cùng nhau trong mỗi biến đổi thời cuộc?

Thứ Ba, tháng 5 20, 2025

Xuất ngũ về Bắc (kì 3)

Bài học nhớ đời ngày muốn trở thành công dân Hà Nội


Tôi từ giã phương Nam ngày 23-9-1984 sau khi cả Bính và Giang đã xuất ngũ trước tôi. Sở dĩ tôi nán lại chút cũng là cố chia tay với bạn bè, người quen vì biết rằng mình sẽ còn rất lâu nữa mới có điều kiện quay trở lại[1]. Dù sao thì gần 4 năm ở Cần Thơ (chính xác hơn là 3 năm 6 tháng – đến Cần Thơ ngày 23-3-1981) nên tôi cũng có nhiều người quen, nhiều kỉ niệm khó quên. Có những người tôi phải mấy lần “nâng chén chia tay” mới thật sự từ giã như gia đình cô Hòa – thầy Liễn, ông Chước, bạn bè cùng quê… Những ngày này tôi đã bán đi đôi vành xe thồ Nhật Bản đổi lấy đôi vành xe “inox Chợ Lớn” và uốn thẳng cái ghi đông, lắp thêm cái đèo hàng cho cái xe đạp của mình. Số tiền dư được nhờ bán đôi vành xe đạp được góp thêm chút cho mấy buổi liên hoan chia tay…

Tôi hí hửng về quê nghỉ ngơi rồi nhanh chóng ra Hà Nội lo công việc. Khi xuất ngũ tôi đã xin thêm giấy đi phép tháng 9 và tháng 10 từ QK9, lại làm tạm trú tại quê từ tháng 11 và 12 để tính chuyện được cấp lương thực theo Giấy cắt chuyển Lương thực từ QK9[2]. Tôi tính định tìm nơi có thể xin việc rồi mới qua Trường Đại học Nông nghiệp I làm thủ tục vì còn ý định khi đó chuyển về trường chỉ là để lấy giấy phân công công tác từ trường đến các cơ quan khác (nếu mình liên hệ được nơi nhận công tác).

Thứ Hai, tháng 5 19, 2025

Xuất ngũ về Bắc (kì 2)

Thủ tục ra quân, chuyển ngành

Tôi trở vào Nam khoảng giữa tháng 7-1984 để làm thủ tục xuất ngũ. Lúc này nhiều người đã chuyển ngành sang công tác bên dân sự. Giang đã xin được công việc ở Cần Thơ, Bính cũng đã có được giấy tiếp nhận ở Ty Nông nghiệp Nghệ Tĩnh.

Tôi cũng bắt đầu bớt băn khoăn là làm thủ tục theo giấy tiếp nhận của tỉnh Thanh Hóa hay theo giấy tiếp nhận của Trường Đại học Nông nghiệp I. Nếu về Thanh Hóa thì khó có cơ hội phát triển chuyên môn sau này. Tôi cũng đã bàn với một số anh em ý định của mình trước khi gửi giấy đi làm thủ tục. Giang thì không nói gì nhưng Bính cũng cho rằng tôi cứ ra trường làm thủ tục giảng viên trước, sau đó thấy không hợp lí thì chuyển sau qua chỉ tiêu của trường hoặc không thích làm giảng viên thì ở phòng ban nào đó cũng được để có thể có hộ khẩu ở Hà Nội trước. Còn sau này muốn về Thanh Hóa thì từ hộ khẩu Hà Nội rồi chuyển sẽ không khó gì, nhưng ngược lại từ Thanh Hóa sẽ khó có cơ hội chuyển ra Hà Nội được. Cuối cùng thì tôi đã nộp giấy tiếp nhận của Trường Đại học Nông nghiệp I, nhưng trong thâm tâm cũng nghĩ mình khó có thể trở thành giảng viên đại học lâu dài.

Xuất ngũ về Bắc (kì 1)


Chúng tôi vào bộ đội năm 1980 với cả mấy ngàn sinh viên tốt nghiệp các trường Đại học – ai cũng tưởng rồi cả đời quân ngũ! Tình hình những năm thập kỉ 1980s ấy có nhiều biến động. Luật Sĩ quan 1981 và quá trình “giải trừ quân bị” bắt đầu được cụ thể hóa bằng hàng loạt các đơn vị kinh tế quân đội giải thể hoặc chuyển sang dân sự. Các kĩ sư-hạ sĩ quan cuối từ 1982 đã lần lượt xuất ngũ, chuyển ngành. Việc xuất ngũ của nhóm kĩ sư-sĩ quan từ 1983 đã rõ dần. Từ đấy, trong chúng tôi ai cũng chuẩn bị cho mình một phương án nghề nghiệp sau khi giải ngũ.

Như đã ghi chép trong các lần đi phép ra Bắc[1], khi tôi đi phép năm 1983 đã gần như rõ hướng chuyển ngành ra Bắc. Tuy vậy, năm 1983 cũng là thời gian có nhiều cân nhắc khá gay cấn về chuyện ra Bắc công tác vì nó liên quan đến quyết định tiếp tục phát triển hay chia tay với bạn gái nữ sinh Đại học Cần Thơ. Tôi cũng rất thích thành phố Cần Thơ bé nhỏ, thơ mộng lại rất nhiều kỉ niệm. Nếu có được công việc ở đây và sẽ tiếp tục tình bạn thân thiết với người mình muốn cũng là một lựa chọn đáng được ưu tiên. Tại đây, tôi quen một anh chị[2] cùng quê công tác ở Công ty nông sản Hậu Giang (thuộc đơn vị của Tổng Công ty Nông sản miền Nam). Anh chị ấy có gợi ý tôi chuyển về đây làm việc và anh cũng đưa tôi cũng đi gặp vài nhân vật quan trọng. Nếu chấp nhận công việc ở đơn vị thu mua hoặc bảo quản chế biến thì có thể người ta giải quyết được. Tuy nhiên, hoàn cảnh gia đình và một số băn khoăn công việc nên tôi chưa thể có quyết định rõ ràng.

Thứ Hai, tháng 5 12, 2025

Chiếc xe đạp đầu tiên của tôi

  

Năm cuối năm 1983, tôi có chiếc xe đạp đầu tiên. Có lẽ cũng thời chúng tôi mới có những “câu chuyện đầu tiên” về những gì mình có được để nhớ. Sở dĩ có cái để nhớ đời vì chúng có quá trình tích góp của toan tính và có sự chung tay giúp đỡ của nhiều người. Mà cũng phải đến năm 26 tuổi, phải gần 4 năm đi làm tôi mới có được điều mơ ước nhỏ nhoi này.

Năm đó nhiều người trong đơn vị đã có chiếc xe đạp riêng. Ba chúng tôi cùng phòng thì Giang có xe đạp sớm nhất: một chiếc xe nguyên hiệu của một hãng nào đó - hình như tên xe là Cửu Long (?). Sau đó Bính cũng sắm được một chiếc, bằng cách mua khung xe của QK7, rồi ra khu phố “chợ giời” Cần Thơ mua phụ tùng lắp. Nhìn chung 3 anh em có 2 xe thì cũng đủ đi lại. Tôi cũng thường mượn xe để vào kí túc xá ĐH Cần Thơ chơi với các bạn nữ sinh nhiều lần.

Thế rồi tôi cũng có ý định “dựng” cho mình một chiếc xe đạp. Tôi nhờ anh Quất mua cho tôi cái khung xe QK7 sản xuất mang từ Sài Gòn xuống trong một chuyến anh đi công tác QK9. Rồi một lần Cục Hậu cần “duyệt bán nội bộ” một số vành xe đạp thồ Nhật Bản, tôi nói anh Quất làm giấy xin mua và đã được phê duyệt từ ông Cục phó Nguyễn Nhật Quang[1]. Giấy được kí duyệt thì anh về Sài Gòn, tôi giúp anh làm các thủ tục lấy đôi vành xe đắt tiền giữ hộ anh. Lần về phép năm 1983, tôi xin anh trai tôi cái ghi đông và potang (cổ) xe đạp thể thao Liên Xô (anh mua khi đi Liên Xô về năm 1981) nhưng về Việt Nam thì anh đổi sang ghi đông thường để đi hàng ngày. Lúc này em trai đi lao động ở Tiệp Khắc cũng đã gửi được một số phụ tùng, tôi có một xích, một líp và một đôi pedan xe của Tiệp Khắc.

Thứ Bảy, tháng 5 10, 2025

Tình cảm đồng đội qua những lần dự cưới

 

Được dự các đám cưới[1] của những người bạn lính là sự vinh dự biết bao, nhất là khi mình còn đang mang áo lính. Tuy nhiên, cả khi đã thôi áo lính mà vẫn được dự các đám cưới của người bạn lính cũng vẫn thật sự vinh hạnh và đáng nhớ.

Dự cưới anh Lê Ngọc Lan và chị Lê Thị Dính

Vào dịp sát đến Tết năm 1981, đơn vị cho chúng tôi biết việc từng người được phân công đến các đơn vị, quân khu cụ thể. Đa số chúng tôi được cử đến các Quân khu phía Nam. Trung đoàn huấn luyện 826 đã có quyết định cho bộ đội về phép nghỉ Tết trước khi đi Nam (như tôi đã viết trong mục Những ngày đầu quân ngũ và Dọc đường vào Nam).

Thứ Hai, tháng 5 05, 2025

Ba lần đi phép ra Bắc


Trong 4 năm ở bộ đội, tôi có 3 lần đi phép ra Bắc theo chế độ như mọi người khác. Hồi đó cơ bản đơn vị thì không có việc gì nhiều, đi về bằng tàu xe lại rất khó khăn nên mỗi lần đi phép có khi thời gian ghi trên giấy phép và các chế độ[1] cắt theo phép ít nhất 45 ngày (một tháng rưỡi). Quy định đi lại qua đường giao liên, khi có giấy nghỉ phép thì người đi phép đem giấy đến các đơn vị Trạm khách (kí hiệu các T như T80, T82…) để đăng kí, các Trạm khách chờ thủ tục tàu xe để xếp cho từng nhóm đi. Khó nhất là chờ tàu hỏa vì mỗi đoàn tàu thống nhất chỉ có vài toa dành quân sự mà quân đội nên có khi phải chờ cả tháng. Ở các tỉnh ngoài Bắc khi trở vào lại càng khó vì họ cũng phải đăng kí trả phép qua các T80 của Tỉnh đội, mà khách đi vào luôn có hiện tượng nhiều hơn so với đi ra nên việc phải chờ hàng tháng kể từ khi đăng kí là chuyện thường. Thành thử mỗi lần đi phép cứ ít ra phải vài tháng mới trở về đơn vị được.

Thứ Sáu, tháng 5 02, 2025

Tình cảnh cuộc sống người lính sau chiến tranh


Những năm tôi ở quân ngũ tại QK9 là những năm chỉ còn lại những tranh chấp biên giới phía Bắc và những trận đánh tàn quân Polpot ở nước bạn Campuchia, tức là những năm tháng của thời bình. Nhưng cuộc chiến đấu mấy mươi năm của đất nước với kẻ thù, quê hương Việt Nam vô cùng kiệt quệ và nghèo đói. Thế hệ chúng tôi có một tuổi thơ đói nghèo và bom đạn. Cái đói, cái nghèo theo mãi cuộc sống mỗi người trong những ngày tháng chiến tranh, trong những ngày đã im tiếng súng ở mỗi cán bộ chiến sĩ và nhân dân trong những ngày chúng tôi là người lính trong QK9.

Dưới đây là một số ghi chép của tôi từ những chuyện tôi chứng kiến hoặc tôi nghe kể từ những người trong chúng tôi hồi đó.

Đối với đội ngũ sĩ quan trung-cao cấp (từ đại úy trở lên) ở QK9 hồi đó, chúng tôi thấy dù họ sống xa vợ con thì cũng đều được phân nhà công vụ trong các khu gia binh sĩ quan. Một số cán bộ cao cấp (cấp tướng) còn được phân nhà từ các căn hộ của quan chức chính quyền cũ (bị tịch thu hoặc đã ra nước ngoài). Với những cán bộ lãnh đạo Cục Kinh tế và Cục Hậu cần những năm 1980-1984 ở QK9, tôi thấy tuy họ có được những không gian riêng tư nhất định nhưng trong cái khó khăn chung của đất nước, họ cũng không có gì gọi là khá giả về đẳng cấp cuộc sống. Những trường hợp tôi đã đến tận nhà các ông Cục phó Nguyễn Nhật Quang, Trần Kì Vân, Nguyễn Hữu Chước, các ông được phân một gian nhà cấp 4 trong những căn hộ gia binh sĩ quan. Ngoài lương, họ có điều kiện tăng gia cải thiện cuộc sống như nuôi heo, nuôi gà như tôi đã có nêu trong những ghi chép trước.