Thứ Ba, tháng 6 24, 2025

Anh trai tôi – Vị Tộc trưởng đời thứ 10 Phúc Ấm Lê Hữu tộc

 Kính dâng hương hồn Anh – nhân ngày giỗ Anh lần thứ 22

 

1. Thông tin chung

Tại trang phả của cha tôi có ghi rõ ngày sinh, năm sinh của ông Lê Hữu Đồ. Đây là bút tích của ông Lê Hữu Đát viết về cháu đích tôn. Hàng chữ chân phương, thẳng đứng, thể hiện rõ tâm thế của người viết là sự mãn nguyện, tự tin và tràn đầy hy vọng của người ông đối với cháu nội mới sinh. Tên Đồ có thể do ông Đát đặt cho cháu với mong muốn cháu trở thành "ông đồ". Từ năm 1935, ông Đát có thể chưa tưởng tượng được sự thay đổi của xã hội mới sau này, nhưng điều ông muốn đứa cháu sống bằng nghề trí óc thay cho nghề nông là điều ông đã suy nghĩ tổng kết rằng nghề nông không thể là nghề của cháu ông, tức là vị Tộc trưởng tương lai chỉ có thể phát triển và tạo được sự nghiệp bền vững cho Dòng họ bằng nghề phi nông nghiệp, phải bằng lao động trí tuệ.

Tên ông ở trang phả ông Lê Hữu Nhạn Đời Thứ 9

Nguyên văn chữ Nho phần liên quan đến tên của ông: Lê Hữu Đồ, sinh Ất Hợi niên, tam nguyệt thập thất nhật. Dịch nghĩa: Lê Hữu Đồ, sinh ngày 17-3 năm Ất Hợi


2. Phân tích, bổ sung và cập nhật thông tin

2.1 Nhận xét chung

Ông dáng người thư sinh, đeo kính cận, khuôn mặt sáng, ưa nhìn, trán cao thông minh. Tính tình hiền lành, ít nói, khiêm nhường, dễ gây thiện cảm với người tiếp xúc. Ông học giỏi, trong điều kiện học giao thời giữa chữ Hán và chữ Việt, tốt nghiệp cấp 3 năm 1955 và được Chính phủ cử sang Liên Xô học đại học từ 1956.

Ông là vị Tộc trưởng có học vấn cao nhất trong Dòng họ: được đào tạo bài bản ở Liên Xô từ đại học cho đến trình độ tiến sĩ và sau tiến sĩ. Ông công tác tại Bộ Xây dựng từ 1962 cho đến khi về hưu 1997, là Nghiên cứu viên cao cấp, cán bộ quản lý cấp Vụ, Viện nhiều năm ở Bộ Xây dựng.

2.2 Bổ sung, cập nhật thông tin

Ông là trưởng nam của ông Lê Hữu Nhận - do vậy giữ vai Tộc trưởng Đời Thứ 10 của Dòng họ. Trong trang phả, ông sinh ngày 17-3 năm Ất Hợi (tức 19-4-1935), trong lý lịch cán bộ là ngày 17-12-1935. Tên ông trong lý lịch cán bộ là Lê Hữu Đỗ từ khi nhận công tác tại Bộ Xây dựng, 1962.

Mẹ ông, bà Lê Thị Chi mất sớm, ông mồ côi mẹ từ khi lên 5 tuổi. Sau đó cha ông lấy vợ kế và ông là anh cùng cha khác mẹ với 3 người em trong gia đình.

Vợ ông là Cao Thị Nhơn, quê Lam Sơn, Đô Lương, Nghệ An, sinh 1947, tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội năm 1971.

Ông Lê Hữu Đỗ mất hồi 7g30 ngày 29-6-2003 (tức 30-5 Quý Mùi) tại Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội do căn bệnh hiểm nghèo về phổi. Tang lễ được Bộ Xây dựng cùng gia đình phối hợp tổ chức trọng thể tại Nhà Tang lễ Quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Ban Tổ chức Lễ tang do Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Liên làm Trưởng ban. Ông được an táng tại nghĩa trang Văn Điển, Hà Nội, sau đó gia đình chuyển về nghĩa trang quê nhà từ năm 2007.

Ông bà có 2 con: Lê Hữu Cao Thắng, sinh 1972 và Lê Thị Thanh Ngọc, sinh 1973.

3. Niên đại, bối cảnh xã hội

Ông là người sinh ra và lớn lên trong giao thời cuối chế độ phong kiến Nhà Nguyễn sang chế độ nước Việt Nam mới. Các sự kiện lớn của lịch sử như nạn đói 1945, Cách mạng Tháng Tám, Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) và Cải cách ruộng đất (1954) là những biến cố lớn tác động mạnh mẽ ở quê hương, nhưng khi đó ông còn nhỏ. Những ảnh hưởng lớn đến công tác của ông là cuộc leo thang chiến tranh đánh phá miền Bắc của B52 Mỹ (1972), Hiệp định Paris (1973), thống nhất đất nước (1975) và những ảnh hưởng của chiến tranh biên giới (1979).

Ông là nạn nhân của lối sống phong kiến, lạc hậu như tảo hôn, nền giáo dục giao thời... Tuy nhiên, nhờ có học vấn tốt nên ông đã vượt qua được để nắm được các cơ hội phát triển. Thành công của cuộc đời ông trong sự nghiệp nhờ kiến thức và những giá trị nhận được từ văn minh phương Tây và nhờ sự vận dụng có hiệu quả kiến thức trong nghề nghiệp ông theo đuổi và cống hiến.

4. Phát triển cá nhân, Dòng họ

- Về nghề nghiệp, ông đạt được văn bằng kỹ sư công nghệ vật liệu xây dựng 1962, sau đó là văn bằng tiến sĩ (1966-1969) tại trường Đại học Xây dựng danh tiếng ở Thủ đô Mat-xcơ-va, Liên Xô (nay là Thủ đô của Liên bang Nga)[1]. Ông còn được đào tạo chương trình sau tiến sĩ cũng tại Đại học Xây dựng trên năm 1980-1981 và chương trình đào tạo quản lý tại Matx-cơ-va năm 1988 dành cho cán bộ cao cấp Việt Nam.

- Ông là lớp người Đời Thứ 10 đầu tiên của Dòng họ thoát ly quê hương và định cư tại Thủ đô Hà Nội. Từ vị thế công việc và tổ chức cuộc sống, ông đã tạo được sự phát triển gia đình, kết nối những gia đình, anh em họ hàng ở Hà Nội thành bộ phận của Dòng họ[2] xa quê hương để cùng tâm tưởng về quê hương thân tình, thiết thực.

- Ông là người khởi sự chấn hưng công việc Dòng họ đã bị suy tàn, quên lãng từ sau Cải cách ruộng đất 1954 đến thập kỷ 1980. Nhờ nắm bắt được cơ hội về đổi mới xã hội, ông đã sớm tổ chức lại công việc Dòng họ hàng năm, tôn tạo những ngôi mộ quan trọng cho Dòng họ ở Cồn Nguộc, dựng lại bàn thờ tổ tiên và phát huy các giá trị Dòng họ phù hợp với sự phát triển xã hội mới. Từ đó tiếp tục khơi dậy, tiếp nối phát triển các giá trị khác của Dòng họ như tôn tạo Từ đường, Khu mộ các năm sau này.

5. Giá trị di sản

5.3.1 Ông là đại diện cho các giá trị và mơ ước của văn minh

Ông là lớp những thanh niên ưu tú của miền Bắc đầu tiên được Chính phủ cử sang Liên Xô học tập. Sự thích nghi và tiếp thu văn minh từ mọi khía cạnh cuộc sống làm bản thân ông mang giá trị hiện thân của văn minh và sự ngưỡng mộ. Ông tiếp thu được văn minh tiên tiến từ xuất thân quê mùa, đói nghèo, lạc hậu. Liên Xô khi đó là nước thứ hai có bom nguyên tử, là nước đầu tiên có tàu vũ trụ... được coi là nước đại diện cho văn minh nhân loại. Những năm ông học tập tại Liên Xô đã được hưởng thụ những giá trị văn minh và nhờ đó cải biến hoàn toàn tư tưởng lạc hậu, phong kiến. Ông trở thành người mang giá trị văn minh, lan tỏa nó trong cuộc sống, trong công việc, trong quê hương, Dòng họ và gia đình. Xứng danh với những điều đã tiếp thu được, mang tải nó và tỏa sáng, nhưng điều đó cũng là áp lực đối với mọi hành vi, tư tưởng và hoạt động của cá nhân ông. Ông đã thành công trong sứ mệnh này, làm cho ông được ngưỡng mộ đến tin yêu trong tâm trí của nhiều người đương thời.

Đối với quê hương, ông là hình ảnh đẹp lung linh trong mắt mọi người. Từ chiếc máy Zenhit những năm 1959-1962 tự học tráng phim và in ảnh, ông đã chụp được những tấm ảnh quý giá cho bà con lối xóm về cuộc sống HTX ở quê, về những buổi tập trung cả xóm dưới gốc dừa đầu làng mà những người được đứng vào như phần thưởng của niềm vinh dự. Nhiều bức ảnh gia đình, người thân từ những năm đó còn cho thấy sự trưởng thành về nghệ thuật chụp, tráng phim, in ảnh của ông. Cả xóm được thấy, được nghe, được chứng kiến những giá trị văn minh lần đầu tiên trong đời: Đó là từ chiếc radio bán dẫn đầu tiên trong làng mỗi tối người đến nghe chật sân để thấy tận mắt và nghe tiếng nói Việt Nam phát ra từ chiếc đài bé tẹo[3], đó là những viên đường trắng làm từ củ cải đường [4] bé nhỏ, vuông vắn, tan trong miệng, ngọt tận chân răng của những người đầu tiên biết về đường, thậm chí mới biết đường là ngọt... Lớp trẻ trong làng lần đầu tiên biết các đồ chơi của văn minh: Chiếc máy bay dân dụng lợi dụng từ tính lượn vòng trên một chiếc que quanh chiếc chiếu giữa nhà; Hình ảnh anh Ga-ga-rin đội mũ phi công vũ trụ bên biểu tượng tàu vũ trụ cao vút lên trời từ khối nhựa trắng tinh; Chiếc bàn nam châm có vũ nữ bale bé tẹo xoay tròn quay tít trên một sân khấu nhỏ bán kính 10cm; Con voi, con thỏ cao su có nút thổi hơi căng phồng; Những bút chì, trang giấy thơm nức mùi gỗ bạch dương trong khi ở quê lúc đó chỉ có giấy thủ công bình dân màu vàng đục hoặc giấy tái chế ngâm vôi viết rất "cắn bút"... Những hình ảnh từ món quà của ông mang về quê hương có giá trị chia sẻ, ngưỡng mộ, có sức thu hút thưởng thức của cộng đồng, có niềm tin của mọi người về niềm tự hào của người con quê hương...

Ông Lê Hữu Đỗ năm 1962 - ảnh chụp khi tốt nghiệp

đại học xây dựng tại Liên Xô


Trong con mắt của người dân, nhất là lớp thanh niên cùng quê thời đó, chiếc xe đạp Liên Xô, chiếc va li da to đùng, cái máy ảnh có 3 chân xoạc ra có thể kéo ra, thu vào và hình ảnh người thanh niên trẻ đẹp trai, thanh tú, giản dị, tươi cười, khiêm nhường như những giấc mơ về sự ngưỡng mộ, là niềm tin dù biết họ không thể nào với tới được nhưng nó luôn là hiện thực tự hào về một trai làng đã đạt tới đại diện cho quê hương, Dòng họ.

5.3.2 Ông là nạn nhân của chế độ phong kiến suy tàn, nhưng ông sớm nắm được cơ hội để vượt qua khó khăn

Là người sống trong giao thời giáo dục từ chữ Hán Nôm sang chữ Việt, ông sớm được học chữ Quốc ngữ nhờ cơ hội địa phương tổ chức được lớp dạy do ông giáo Đốc Lương[5] phụ trách. Sau này, ông nhiều lần nói rằng nếu không có lớp học của ông giáo Đốc Lương thì lớp thanh niên như ông không có điều kiện phát triển sau này. Cùng thời với ông có nhiều trai làng ở gia đình giàu, có điều kiện theo học nhưng khi phải xa nhà để theo học trọ ở trường tỉnh thì nhiều người bỏ cuộc. Ông đi trọ học cấp 2 rồi cấp 3 những năm từ 12-20 tuổi và nhờ đó ông có cơ hội được Chính phủ chọn cử đi học Liên Xô. Mặc dù gia đình gặp nạn trong Cải cách ruộng đất và thành phần gia đình sau đó được sửa sai từ địa chủ sang phú nông rồi trung nông lớp trên, nhưng nhờ thành tích học tập giỏi nên ông không bị gạt mất cơ hội học tập. Ông đã tự mình quyết tâm cố gắng để thoát ly bằng con đường học vấn là thành công của ông so với nhiều thanh niên địa phương cùng thời không dám theo đuổi.

Ông là nạn nhân của hủ tục tảo hôn phong kiến, từ khi 14-15 tuổi ông đã được mối lái lấy vợ nhiều tuổi hơn ông[6] khi đang đi học trọ cấp 2. Cuộc hôn nhân không tình yêu với người vợ cùng xóm là gánh nặng ông mang trong hàng chục năm trời. Ông đi học Liên Xô năm 1956 và thoát ly đi công tác trong nỗi đau khổ của chính ông, của người vợ ông. Sự chia ly kéo dài do thủ tục ly hôn dai dẳng sau hơn 20 năm... Cả ông và người đàn bà đó đều đã để lại tuổi thanh xuân cho nạn nhân của một hủ tục đầy đau khổ.

Hoàn cảnh gia đình thuộc dạng bị cải tạo trong Cải cách ruộng đất cùng với sự ly hôn kéo dài đã gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình công tác của ông. Nhiều lần tổ chức và cơ quan về địa phương xác nhận tình trạng gia đình và điều kiện của ông để đề bạt cán bộ, bố trí công tác... đã làm hạn chế nhiều đến sự cố gắng phấn đấu của cá nhân ông. Những gì ông có được đều là nỗ lực rất lớn với kết quả nhận được luôn muộn màng hơn nhiều người khác.

Trong cuộc sống, ông đã trải và vượt qua bằng những nỗ lực cá nhân lớn, khẳng định sự bền bỉ, dẻo dai, kiên trì vì những quyền cơ bản của con người mà ông biết chúng sẽ đem lại cho ông nhiều giá trị hơn trong âm thầm hy sinh và phấn đấu.

5.3.3 Ông là hiện thân cho sự tín nhiệm trong quan hệ xã hội

Ở quê hương, gia đình và Dòng họ, ông là sự ngưỡng mộ và những hành động nêu gương của ông luôn khẳng định sự tín nhiệm cao.

Mặc dù không phải là người bang giao rộng rãi nhưng ông có thiên chức gieo vào những người gặp ông sự tin cậy và hy vọng. Điều đó có được là nhờ sự khiêm nhường, thành thực, lắng nghe và cầu thị, thẳng thắn. Những người gặp, làm việc với ông đã không thể quên dù ông không hẳn tế nhị, không khéo léo ăn nói, nhưng ông được cảm tình từ sự quan tâm, dễ mến, không hình thức màu mè, khoe khoang. Tính thuyết phục ở ông là thái độ chân tình và ý kiến của ông có tầm suy tư trí thức. Nhờ đó ông đã thành công bằng tín nhiệm trong quan hệ xã hội.

5.3.4 Ông mang giá trị nêu gương trong cuộc sống

Là anh cả, ông vững vàng trong gia đình, không có thái độ "con mẹ, con dì". Kính trọng lễ phép thực sự với dì và kết bền quan hệ sâu nặng với gia đình bên mẹ đẻ là sự cân bằng có trí tuệ trong nhận thức của đứa trẻ mồ côi mẹ từ khi 5 tuổi. Tình cảm đó còn lắng đọng lại mãi khi ông đón dì ra thăm Hà Nội và sau đó gửi con trai của ông về quê nhờ dì chăm sóc lúc Thủ đô bị B52 dội bom. Trong những năm ông học ở Liên Xô, tất cả các thư từ gửi về đều có câu mở đầu "Thưa thầy dì" rất lễ phép.

Trong gia đình và quê hương, ông quan tâm giúp đỡ nhiều hoàn cảnh bằng mọi cơ hội hợp lý[7] để họ tự đứng lên được trong cuộc sống ở vị thế tốt hơn. Đa số những người được ông giúp đỡ đã cải thiện được phát triển cá nhân và gia đình họ sau này.

Trong Dòng họ, ông là điểm tụ để khởi phát những giá trị từ hoạt động quy tập họ hàng, khởi phát tôn tạo mồ mả tổ tiên, kết nối con cháu các miền quê với tổ ấm quê hương những ngày đáng nhớ. Trước khi mất ở Bệnh viện Bạch Mai, mặc dù rất yếu nhưng ông đã gửi lại thông điệp của ông cho vợ, con và người thân về chuyện ký thác chăm lo công việc Dòng họ, gia đình.

5.3.5 Hoạt động nghề nghiệp uy tín

Hoạt động của ông về nghề nghiệp là quá trình học tập và vận dụng kết quả học tập khoa học kỹ thuật để cống hiến cho sự nghiệp xây dựng từ khi ông tốt nghiệp Đại học 1962 đến khi hoàn thành đào tạo tiến sĩ và sau tiến sĩ. Những kiến thức về xây dựng, vật liệu xây dựng đã bảo đảm cho ông những tín nhiệm trong công tác kĩ sư, cán bộ quản lý khoa học kỹ thuật ở những nơi ông công tác như Nhà máy Bê tông Hải Phòng; Cục Vật liệu Kiến trúc (Bộ Kiến trúc – nay là Bộ Xây dựng); Cục Quản lý sản xuất Vật liệu xây dựng và Vụ Kỹ thuật (Bộ Kiến trúc); Viện Thí nghiệm Vật liệu xây dựng (nay là Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng); Công ty Gạch ngói và Sành sứ xây dựng (sau là Tổng Công ty Thủy tinh và Gốm sứ xây dựng); Vụ Kỹ thuật và Thiết kế Vật liệu xây dựng; Vụ Quản lý Khoa học kỹ thuật; Viện Vật liệu Xây dựng, Bộ Xây dựng. Ông về hưu ở tuổi 62 năm 1997 với 35 năm liên tục học tập và cống hiến cho ngành xây dựng Việt Nam.

5.3.6 Ông biết gửi giá trị tinh thần sâu xa vào quà tặng

Ngoài những món quà có tính nhất thời cho bà con, người thân là những giá trị của các món quà ông để lại quê nhà. Tại trụ sở Ủy ban Hành chính xã và trụ sở HTX năm 1962 là 2 chiếc đồng hồ quả lắc đánh chuông, lên dây bằng quả dọi lúc lắc báo giờ làm ngạc nhiên những người đến làm việc và là niềm tự hào của địa phương. Tại gia đình, chiếc đồng hồ báo thức lên dây cót để bàn là điểm để cả xóm biết giờ đi làm, giờ thức dậy, giờ nấu cơm, đi học... Người dân quê đến hỏi giờ là việc diễn ra suốt cả chục năm trời. Giờ từ chiếc đồng hồ đó là thời điểm xuất phát cho nhiều hoạt động trong xóm. Giá trị văn minh đã mang đến những lợi ích cụ thể, thiết thực cho mọi người.

Trong những năm tháng xa nhà, ông thường xuyên liên lạc với gia đình qua những lá thư trong phong bì hàng không[8] có gạch xanh đỏ, đóng dấu PAR AVION để ông bưu tá địa phương nhiều năm khoe rằng xã tôi có thư gửi về từ nước ngoài. Những món quà của ông đều mang giá trị tinh thần lớn lao. Từ Liên Xô là những lọ mật ong đậy nắp sắt, bên trong là chất mật màu cánh dán có phần đáy đã lắng đọng thành đường, là những lọ Pantokrin với vỏ hộp có hình cái đầu con linh hương màu xanh xứ tuyết Nga. Quà cho em gái là mảnh vải hồng nhạt để dành may áo khi cưới. Những năm ông đi học nghiên cứu sinh, phần lương để lại ông chuyển về gia đình nhận hàng tháng để chống đói và nuôi các em đi học. Trong một thư ông gửi từ Liên Xô 1981 cho em trai vừa tốt nghiệp đại học được gọi đi bộ đội có một chiếc khăn mùi xoa sọc hồng thơm ngát mùi băng phiến Nga như lời động viên hãy tin vào cuộc sống. Ông không quên mấy viên thuốc chữa bệnh hen cho ông chú họ ngoại ở quê khi một lần nghe ông ấy nói về căn bệnh của ông[9]. Ông không quên quà cho các o, cho thím, cho các cháu khi mỗi lần thăm quê. Trong những quà của ông chứa đựng những giá trị không thể quên mang đậm tâm tư của người con, người cháu hiếu thảo, người anh biết gửi những giá trị mơ ước cho các em và sự thân tình với họ hàng quê hương. Chính vì thế ông mãi có được hình ảnh kính trọng mến yêu trong lòng mọi người.

5.3.7 Ông đóng vai người kết nối

Là người con quê hương, Dòng họ sống ở Thủ đô, ông là đầu mối kết nối của những chuyến hiếm hoi được đến Thủ đô trong những dịp công tác, chữa bệnh, viếng thăm, học tập của người thân, họ hàng, bà con, bạn bè của quê hương nội ngoại và từ những người được giới thiệu đến gặp... Những năm chiến tranh và cuộc sống hòa bình sau 1975 cực kỳ khó khăn về nhà ở, thậm chí có lúc căn hộ nhà ông chỉ có 6m2 cho đến khi có căn hộ riêng, hàng năm ông có rất nhiều lần đón, tiễn, tổ chức ngủ nghỉ, hướng dẫn đi thăm thú cho hàng chục chuyến đến Thủ đô của người thân và bạn bè. Thời buổi khó khăn, điều kiện túng thiếu nhưng tấm lòng rộng mở của ông và gia đình đã làm vui lòng hầu hết các chuyến viếng thăm quý giá. Những năm sau này mọi người không quên sự quan tâm, nhiệt tình của ông và gia đình trong căn phòng vừa là phòng khách, là nơi uống trà, là nơi trải chiếc chiếu ăn cơm và cũng là nơi ngủ trên sàn... Bữa cơm rau cá đạm bạc của cán bộ công chức trong không gian ấy, tối trải chăn ngủ trên sàn nhưng rất thân tình ấm cúng. Ông bận rộn công tác vẫn tận tình chỉ dẫn đưa đón, thăm viếng và khi tiễn khách về còn chút quà từ cái mũ cát, cái áo mưa, bộ quần áo lao động cũ còn mặc được, đôi dép, cái khăn mặt phân phối chưa dùng, bánh xà phòng để dành... Những chia sẻ đó lớn lao như những tài sản quý giá được mọi người trân trọng giữ mãi trong lòng. Gia đình ông còn là nơi trú ngụ về hộ khẩu cho người chờ cơ hội nhập về Thủ đô. Ông làm lặng lẽ, âm thầm nhưng trân trọng vì ông biết rằng chúng mang thông điệp lâu dài về sự sẻ chia có tình quê, Dòng họ, máu mủ của người con xa quê. Ông gửi thông điệp đến mọi người rằng người xa quê dù còn vất vả nhưng không bao giờ quên quê, quên lề, quên thói, là tấm lòng, là tâm tình, thương cảm với những số phận con người...

Tại cuốn "Lịch sử Đảng bộ và Phong trào cách mạng xã Đồng Tiến 1930-2015" do NXB Thanh Hóa ấn hành 2016, tên ông được địa phương nêu tên trong danh sách những người con địa phương là cán bộ trưởng thành trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.

 

 

 



[1] Văn bằng Candidate ở Liên Xô khi đó, Việt Nam gọi là Phó Tiến sĩ, sau đó thống nhất gọi là tiến sĩ cho tương đương với các hình thức đào tạo quốc tế. Trường Đại học Xây dựng Quốc gia Mat-xcơ-va ở Liên Xô đến năm 1993 đổi tên thành Viện Kỹ thuật và Xây dựng Moscow – một trong những trường đại học kỹ thuật hàng đầu về Xây dựng ở Nga

[2] Những năm 1962-1966, ông Lê Hữu Bản kể lại ông Đỗ thường xuyên gặp gỡ các ông Lê Hữu Chất, Lê Hữu Quả, Lê Hữu Bản. Khi đó Dòng họ Lê Hữu có 4 ông đều sống ở Thủ đô. Thông tin này được ông Lê Hữu Bản cung cấp ngày 20 tháng Chạp Tân Sửu (tức ngày 22-1-2022 tại Từ đường. (Từ 1966-1969, ông Đỗ đi học nghiên cứu sinh ở Liên Xô).

[3] Hơn hẳn chất lượng tiếng nói được nghe từ cái galen của xóm lấy năng lượng từ hơi nóng ngọn đèn bão.

[4] Là sinh viên nên quà cho cả làng chỉ có thể là những viên đường để chia được cho nhiều người, rẻ hơn kẹo sữa rất nhiều.

[5] Ngày 18-12-2021, chúng tôi tình cờ gặp được ông Tuợ (ông Tuợ là em ruột bà Bượt, vợ ông Chế), người cùng tuổi và cùng học với ông Đỗ. Ông Tuợ kể rằng ông Đốc Lương dạy học rất hay. Gọi bằng "Đốc" có thể trước đây ông giáo Lương làm việc ở cơ quan đốc học tỉnh. Các học trò lúc bấy giờ khoảng 10-11 tuổi. Học trò cùng lớp trong làng có các ông Nguyễn Hữu Lơn (Sơn), Nguyễn Hữu Hàm, Lê Hữu Đỗ, Lê Văn Tuợ... Ông Tuợ còn nói ông Đỗ khi đó học giỏi nhất. Khoảng những năm 1965, chúng tôi vẫn còn thấy một số sách giáo khoa cất giữ trong nhà hồi ông Đỗ đi học. Tôi vẫn còn nhớ một số bài như Lòng Trắc ẩn, Cái địa bàn...

[6] Bà tên là Nguyễn Thị Theo.

[7] Ông thường giúp những người đã hoàn thành nghĩa vụ quân đội được thoát ly đi công nhân, đi lao động xuất khẩu... bằng chính sách nhà nước lúc bấy  giờ.

[8] Hồi đó chỉ có thư từ nước ngoài mới có phong bì loại này. Trong nước là phong bì tự gấp dán bằng mủ sung hay cơm nguội...

[9] Ông Đượi (xã người cháu họ bên ngoại) hồi đó bị hen đã nhờ ông mua thuốc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét