Kính dâng hương hồn Anh – nhân ngày giỗ Anh lần thứ 22
1. Thông tin chung
Tại trang phả của cha tôi
có ghi rõ ngày sinh, năm sinh của ông Lê Hữu Đồ. Đây là bút tích của ông Lê Hữu
Đát viết về cháu đích tôn. Hàng chữ chân phương, thẳng đứng, thể hiện rõ tâm thế
của người viết là sự mãn nguyện, tự tin và tràn đầy hy vọng của người ông đối với
cháu nội mới sinh. Tên Đồ có thể do ông Đát đặt cho cháu với mong muốn cháu trở
thành "ông đồ". Từ năm 1935, ông Đát có thể chưa tưởng tượng được sự
thay đổi của xã hội mới sau này, nhưng điều ông muốn đứa cháu sống bằng nghề
trí óc thay cho nghề nông là điều ông đã suy nghĩ tổng kết rằng nghề nông không
thể là nghề của cháu ông, tức là vị Tộc trưởng tương lai chỉ có thể phát triển
và tạo được sự nghiệp bền vững cho Dòng họ bằng nghề phi nông nghiệp, phải bằng
lao động trí tuệ.
![]() |
Tên ông ở trang phả ông Lê Hữu Nhạn Đời Thứ 9 |
Nguyên văn chữ Nho phần liên quan đến tên của ông: Lê Hữu Đồ, sinh Ất Hợi niên, tam nguyệt thập thất nhật. Dịch nghĩa: Lê Hữu Đồ, sinh ngày 17-3 năm Ất Hợi
2. Phân tích, bổ sung và cập nhật thông tin
2.1 Nhận xét chung
Ông dáng người thư sinh,
đeo kính cận, khuôn mặt sáng, ưa nhìn, trán cao thông minh. Tính tình hiền
lành, ít nói, khiêm nhường, dễ gây thiện cảm với người tiếp xúc. Ông học giỏi,
trong điều kiện học giao thời giữa chữ Hán và chữ Việt, tốt nghiệp cấp 3 năm 1955
và được Chính phủ cử sang Liên Xô học đại học từ 1956.
Ông là vị Tộc trưởng có học vấn cao nhất trong Dòng họ: được đào tạo bài bản ở Liên Xô từ đại học cho đến trình độ tiến sĩ và sau tiến sĩ. Ông công tác tại Bộ Xây dựng từ 1962 cho đến khi về hưu 1997, là Nghiên cứu viên cao cấp, cán bộ quản lý cấp Vụ, Viện nhiều năm ở Bộ Xây dựng.
2.2 Bổ sung, cập
nhật thông tin
Ông là trưởng nam của ông
Lê Hữu Nhận - do vậy giữ vai Tộc trưởng Đời Thứ 10 của Dòng họ. Trong trang phả,
ông sinh ngày 17-3 năm Ất Hợi (tức 19-4-1935), trong lý lịch cán bộ là ngày
17-12-1935. Tên ông trong lý lịch cán bộ là Lê Hữu Đỗ từ khi nhận công tác tại
Bộ Xây dựng, 1962.
Mẹ ông, bà Lê Thị Chi mất
sớm, ông mồ côi mẹ từ khi lên 5 tuổi. Sau đó cha ông lấy vợ kế và ông là anh
cùng cha khác mẹ với 3 người em trong gia đình.
Vợ ông là Cao Thị Nhơn,
quê Lam Sơn, Đô Lương, Nghệ An, sinh 1947, tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội năm 1971.
Ông Lê Hữu Đỗ mất hồi
7g30 ngày 29-6-2003 (tức 30-5 Quý Mùi) tại Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội do căn bệnh
hiểm nghèo về phổi. Tang lễ được Bộ Xây dựng cùng gia đình phối hợp tổ chức trọng
thể tại Nhà Tang lễ Quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Ban Tổ chức Lễ tang
do Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Văn Liên làm Trưởng ban. Ông được an táng tại
nghĩa trang Văn Điển, Hà Nội, sau đó gia đình chuyển về nghĩa trang quê nhà từ
năm 2007.
Ông bà có 2 con: Lê Hữu Cao
Thắng, sinh 1972 và Lê Thị Thanh Ngọc,
sinh 1973.
3. Niên đại, bối cảnh xã hội
Ông là người sinh ra và lớn
lên trong giao thời cuối chế độ phong kiến Nhà Nguyễn sang chế độ nước Việt Nam
mới. Các sự kiện lớn của lịch sử như nạn đói 1945, Cách mạng Tháng Tám, Chiến
thắng Điện Biên Phủ (1954) và Cải cách ruộng đất (1954) là những biến cố lớn
tác động mạnh mẽ ở quê hương, nhưng khi đó ông còn nhỏ. Những ảnh hưởng lớn đến
công tác của ông là cuộc leo thang chiến tranh đánh phá miền Bắc của B52 Mỹ
(1972), Hiệp định Paris (1973), thống nhất đất nước (1975) và những ảnh hưởng của
chiến tranh biên giới (1979).
Ông là nạn nhân của lối sống
phong kiến, lạc hậu như tảo hôn, nền giáo dục giao thời... Tuy nhiên, nhờ có học
vấn tốt nên ông đã vượt qua được để nắm được các cơ hội phát triển. Thành công
của cuộc đời ông trong sự nghiệp nhờ kiến thức và những giá trị nhận được từ
văn minh phương Tây và nhờ sự vận dụng có hiệu quả kiến thức trong nghề nghiệp
ông theo đuổi và cống hiến.
4. Phát triển cá nhân, Dòng họ
- Về nghề nghiệp, ông đạt
được văn bằng kỹ sư công nghệ vật liệu xây dựng 1962, sau đó là văn bằng tiến
sĩ (1966-1969) tại trường Đại học Xây dựng danh tiếng ở Thủ đô Mat-xcơ-va, Liên
Xô (nay là Thủ đô của Liên bang Nga)[1]. Ông còn
được đào tạo chương trình sau tiến sĩ cũng tại Đại học Xây dựng trên năm 1980-1981
và chương trình đào tạo quản lý tại Matx-cơ-va năm 1988 dành cho cán bộ cao cấp
Việt Nam.
- Ông là lớp người Đời Thứ
10 đầu tiên của Dòng họ thoát ly quê hương và định cư tại Thủ đô Hà Nội. Từ vị
thế công việc và tổ chức cuộc sống, ông đã tạo được sự phát triển gia đình, kết
nối những gia đình, anh em họ hàng ở Hà Nội thành bộ phận của Dòng họ[2] xa quê
hương để cùng tâm tưởng về quê hương thân tình, thiết thực.
- Ông là người khởi sự chấn
hưng công việc Dòng họ đã bị suy tàn, quên lãng từ sau Cải cách ruộng đất 1954
đến thập kỷ 1980. Nhờ nắm bắt được cơ hội về đổi mới xã hội, ông đã sớm tổ chức
lại công việc Dòng họ hàng năm, tôn tạo những ngôi mộ quan trọng cho Dòng họ ở
Cồn Nguộc, dựng lại bàn thờ tổ tiên và phát huy các giá trị Dòng họ phù hợp với
sự phát triển xã hội mới. Từ đó tiếp tục khơi dậy, tiếp nối phát triển các giá
trị khác của Dòng họ như tôn tạo Từ đường, Khu mộ các năm sau này.
5. Giá trị di sản
5.3.1 Ông là đại diện cho các giá trị và
mơ ước của văn minh
Ông là lớp những thanh
niên ưu tú của miền Bắc đầu tiên được Chính phủ cử sang Liên Xô học tập. Sự
thích nghi và tiếp thu văn minh từ mọi khía cạnh cuộc sống làm bản thân ông
mang giá trị hiện thân của văn minh và sự ngưỡng mộ. Ông tiếp thu được văn minh
tiên tiến từ xuất thân quê mùa, đói nghèo, lạc hậu. Liên Xô khi đó là nước thứ
hai có bom nguyên tử, là nước đầu tiên có tàu vũ trụ... được coi là nước đại diện
cho văn minh nhân loại. Những năm ông học tập tại Liên Xô đã được hưởng thụ những
giá trị văn minh và nhờ đó cải biến hoàn toàn tư tưởng lạc hậu, phong kiến. Ông
trở thành người mang giá trị văn minh, lan tỏa nó trong cuộc sống, trong công
việc, trong quê hương, Dòng họ và gia đình. Xứng danh với những điều đã tiếp
thu được, mang tải nó và tỏa sáng, nhưng điều đó cũng là áp lực đối với mọi
hành vi, tư tưởng và hoạt động của cá nhân ông. Ông đã thành công trong sứ mệnh
này, làm cho ông được ngưỡng mộ đến tin yêu trong tâm trí của nhiều người đương
thời.
Đối với quê hương, ông là
hình ảnh đẹp lung linh trong mắt mọi người. Từ chiếc máy Zenhit những năm
1959-1962 tự học tráng phim và in ảnh, ông đã chụp được những tấm ảnh quý giá
cho bà con lối xóm về cuộc sống HTX ở quê, về những buổi tập trung cả xóm dưới
gốc dừa đầu làng mà những người được đứng vào như phần thưởng của niềm vinh dự.
Nhiều bức ảnh gia đình, người thân từ những năm đó còn cho thấy sự trưởng thành
về nghệ thuật chụp, tráng phim, in ảnh của ông. Cả xóm được thấy, được nghe, được
chứng kiến những giá trị văn minh lần đầu tiên trong đời: Đó là từ chiếc radio
bán dẫn đầu tiên trong làng mỗi tối người đến nghe chật sân để thấy tận mắt và
nghe tiếng nói Việt Nam phát ra từ chiếc đài bé tẹo[3], đó là
những viên đường trắng làm từ củ cải đường [4] bé nhỏ,
vuông vắn, tan trong miệng, ngọt tận chân răng của những người đầu tiên biết về
đường, thậm chí mới biết đường là ngọt... Lớp trẻ trong làng lần đầu tiên biết
các đồ chơi của văn minh: Chiếc máy bay dân dụng lợi dụng từ tính lượn vòng
trên một chiếc que quanh chiếc chiếu giữa nhà; Hình ảnh anh Ga-ga-rin đội mũ
phi công vũ trụ bên biểu tượng tàu vũ trụ cao vút lên trời từ khối nhựa trắng
tinh; Chiếc bàn nam châm có vũ nữ bale bé tẹo xoay tròn quay tít trên một sân
khấu nhỏ bán kính 10cm; Con voi, con thỏ cao su có nút thổi hơi căng phồng; Những
bút chì, trang giấy thơm nức mùi gỗ bạch dương trong khi ở quê lúc đó chỉ có giấy
thủ công bình dân màu vàng đục hoặc giấy tái chế ngâm vôi viết rất "cắn
bút"... Những hình ảnh từ món quà của ông mang về quê hương có giá trị
chia sẻ, ngưỡng mộ, có sức thu hút thưởng thức của cộng đồng, có niềm tin của mọi
người về niềm
tự hào của người con quê hương...
![]() |
Ông Lê Hữu Đỗ năm 1962 - ảnh chụp khi tốt nghiệp
đại học xây dựng tại Liên Xô |
Trong con mắt của người dân, nhất là lớp thanh niên cùng quê thời đó, chiếc xe đạp Liên Xô, chiếc va li da to đùng, cái máy ảnh có 3 chân xoạc ra có thể kéo ra, thu vào và hình ảnh người thanh niên trẻ đẹp trai, thanh tú, giản dị, tươi cười, khiêm nhường như những giấc mơ về sự ngưỡng mộ, là niềm tin dù biết họ không thể nào với tới được nhưng nó luôn là hiện thực tự hào về một trai làng đã đạt tới đại diện cho quê hương, Dòng họ.
5.3.2 Ông là nạn
nhân của chế độ phong kiến suy tàn, nhưng ông sớm nắm được cơ hội để vượt qua
khó khăn
Là người sống trong giao
thời giáo dục từ chữ Hán Nôm sang chữ Việt, ông sớm được học chữ Quốc ngữ nhờ
cơ hội địa phương tổ chức được lớp dạy do ông giáo Đốc Lương[5] phụ
trách. Sau này, ông nhiều lần nói rằng nếu không có lớp học của ông giáo Đốc
Lương thì lớp thanh niên như ông không có điều kiện phát triển sau này. Cùng thời
với ông có nhiều trai làng ở gia đình giàu, có điều kiện theo học nhưng khi phải
xa nhà để theo học trọ ở trường tỉnh thì nhiều người bỏ cuộc. Ông đi trọ học cấp
2 rồi cấp 3 những năm từ 12-20 tuổi và nhờ đó ông có cơ hội được Chính phủ chọn
cử đi học Liên Xô. Mặc dù gia đình gặp nạn trong Cải cách ruộng đất và thành phần
gia đình sau đó được sửa sai từ địa chủ sang phú nông rồi trung nông lớp trên,
nhưng nhờ thành tích học tập giỏi nên ông không bị gạt mất cơ hội học tập. Ông
đã tự mình quyết tâm cố gắng để thoát ly bằng con đường học vấn là thành công của
ông so với nhiều thanh niên địa phương cùng thời không dám theo đuổi.
Ông là nạn nhân của hủ tục
tảo hôn phong kiến, từ khi 14-15 tuổi ông đã được mối lái lấy vợ nhiều tuổi hơn
ông[6] khi đang
đi học trọ cấp 2. Cuộc hôn nhân không tình yêu với người vợ cùng xóm là gánh nặng
ông mang trong hàng chục năm trời. Ông đi học Liên Xô năm 1956 và thoát ly đi
công tác trong nỗi đau khổ của chính ông, của người vợ ông. Sự chia ly kéo dài
do thủ tục ly hôn dai dẳng sau hơn 20 năm... Cả ông và người đàn bà đó đều đã để
lại tuổi thanh xuân cho nạn nhân của một hủ tục đầy đau khổ.
Hoàn cảnh gia đình thuộc
dạng bị cải tạo trong Cải cách ruộng đất cùng với sự ly hôn kéo dài đã gây ra
những ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình công tác của ông. Nhiều lần tổ chức và
cơ quan về địa phương xác nhận tình trạng gia đình và điều kiện của ông để đề bạt
cán bộ, bố trí công tác... đã làm hạn chế nhiều đến sự cố gắng phấn đấu của cá
nhân ông. Những gì ông có được đều là nỗ lực rất lớn với kết quả nhận được luôn
muộn màng hơn nhiều người khác.
Trong cuộc sống, ông đã
trải và vượt qua bằng những nỗ lực cá nhân lớn, khẳng định sự bền bỉ, dẻo dai,
kiên trì vì những quyền cơ bản của con người mà ông biết chúng sẽ đem lại cho
ông nhiều giá trị hơn trong âm thầm hy sinh và phấn đấu.
5.3.3 Ông là hiện
thân cho sự tín nhiệm trong quan hệ xã hội
Ở quê hương, gia đình và Dòng
họ, ông là sự ngưỡng mộ và những hành động nêu gương của ông luôn khẳng định sự
tín nhiệm cao.
Mặc dù không phải là người
bang giao rộng rãi nhưng ông có thiên chức gieo vào những người gặp ông sự tin
cậy và hy vọng. Điều đó có được là nhờ sự khiêm nhường, thành thực, lắng nghe
và cầu thị, thẳng thắn. Những người gặp, làm việc với ông đã không thể quên dù
ông không hẳn tế nhị, không khéo léo ăn nói, nhưng ông được cảm tình từ sự quan
tâm, dễ mến, không hình thức màu mè, khoe khoang. Tính thuyết phục ở ông là
thái độ chân tình và ý kiến của ông có tầm suy tư trí thức. Nhờ đó ông đã thành
công bằng tín nhiệm trong quan hệ xã hội.
5.3.4 Ông mang giá
trị nêu gương trong cuộc sống
Là anh cả, ông vững vàng
trong gia đình, không có thái độ "con mẹ, con dì". Kính trọng
lễ phép thực sự với dì và kết bền quan hệ sâu nặng với gia đình bên mẹ đẻ là sự
cân bằng có trí tuệ trong nhận thức của đứa trẻ mồ côi mẹ từ khi 5 tuổi. Tình cảm
đó còn lắng đọng lại mãi khi ông đón dì ra thăm Hà Nội và sau đó gửi con trai của
ông về quê nhờ dì chăm sóc lúc Thủ đô bị B52 dội bom. Trong những năm ông học ở
Liên Xô, tất cả các thư từ gửi về đều có câu mở đầu "Thưa thầy dì"
rất lễ phép.
Trong gia đình và quê
hương, ông quan tâm giúp đỡ nhiều hoàn cảnh bằng mọi cơ hội hợp lý[7] để họ tự
đứng lên được trong cuộc sống ở vị thế tốt hơn. Đa số những người được ông giúp
đỡ đã cải thiện được phát triển cá nhân và gia đình họ sau này.
Trong Dòng họ, ông là điểm
tụ để khởi phát những giá trị từ hoạt động quy tập họ hàng, khởi phát tôn tạo mồ
mả tổ tiên, kết nối con cháu các miền quê với tổ ấm quê hương những ngày đáng
nhớ. Trước khi mất ở Bệnh viện Bạch Mai, mặc dù rất yếu nhưng ông đã gửi lại
thông điệp của ông cho vợ, con và người thân về chuyện ký thác chăm lo công việc
Dòng họ, gia đình.
5.3.5 Hoạt động
nghề nghiệp uy tín
Hoạt động của ông về nghề
nghiệp là quá trình học tập và vận dụng kết quả học tập khoa học kỹ thuật để cống
hiến cho sự nghiệp xây dựng từ khi ông tốt nghiệp Đại học 1962 đến khi hoàn
thành đào tạo tiến sĩ và sau tiến sĩ. Những kiến thức về xây dựng, vật liệu xây
dựng đã bảo đảm cho ông những tín nhiệm trong công tác kĩ sư, cán bộ quản lý
khoa học kỹ thuật ở những nơi ông công tác như Nhà máy Bê tông Hải Phòng; Cục Vật
liệu Kiến trúc (Bộ Kiến trúc – nay là Bộ Xây dựng); Cục Quản lý sản xuất Vật liệu
xây dựng và Vụ Kỹ thuật (Bộ Kiến trúc); Viện Thí nghiệm Vật liệu xây dựng (nay
là Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng); Công ty Gạch ngói và Sành sứ xây dựng
(sau là Tổng Công ty Thủy tinh và Gốm sứ xây dựng); Vụ Kỹ thuật và Thiết kế Vật
liệu xây dựng; Vụ Quản lý Khoa học kỹ thuật; Viện Vật liệu Xây dựng, Bộ Xây dựng.
Ông về hưu ở tuổi 62 năm 1997 với 35 năm liên tục học tập và cống hiến cho
ngành xây dựng Việt Nam.
5.3.6 Ông biết gửi
giá trị tinh thần sâu xa vào quà tặng
Ngoài những món quà có
tính nhất thời cho bà con, người thân là những giá trị của các món quà ông để lại
quê nhà. Tại trụ sở Ủy ban Hành chính xã và trụ sở HTX năm 1962 là 2 chiếc đồng
hồ quả lắc đánh chuông, lên dây bằng quả dọi lúc lắc báo giờ làm ngạc nhiên những
người đến làm việc và là niềm tự hào của địa phương. Tại gia đình, chiếc đồng hồ
báo thức lên dây cót để bàn là điểm để cả xóm biết giờ đi làm, giờ thức dậy, giờ
nấu cơm, đi học... Người dân quê đến hỏi giờ là việc diễn ra suốt cả chục năm
trời. Giờ từ chiếc đồng hồ đó là thời điểm xuất phát cho nhiều hoạt động trong
xóm. Giá trị văn minh đã mang đến những lợi ích cụ thể, thiết thực cho mọi người.
Trong những năm tháng xa
nhà, ông thường xuyên liên lạc với gia đình qua những lá thư trong phong bì
hàng không[8] có gạch
xanh đỏ, đóng dấu PAR AVION để ông
bưu tá địa phương nhiều năm khoe rằng xã tôi có thư gửi về từ nước ngoài. Những
món quà của ông đều mang giá trị tinh thần lớn lao. Từ Liên Xô là những lọ mật
ong đậy nắp sắt, bên trong là chất mật màu cánh dán có phần đáy đã lắng đọng
thành đường, là những lọ Pantokrin với vỏ hộp có hình cái đầu con linh hương
màu xanh xứ tuyết Nga. Quà cho em gái là mảnh vải hồng nhạt để dành may áo khi
cưới. Những năm ông đi học nghiên cứu sinh, phần lương để lại ông chuyển về gia
đình nhận hàng tháng để chống đói và nuôi các em đi học. Trong một thư ông gửi
từ Liên Xô 1981 cho em trai vừa tốt nghiệp đại học được gọi đi bộ đội có một
chiếc khăn mùi xoa sọc hồng thơm ngát mùi băng phiến Nga như lời động viên hãy
tin vào cuộc sống. Ông không quên mấy viên thuốc chữa bệnh hen cho ông chú họ
ngoại ở quê khi một lần nghe ông ấy nói về căn bệnh của ông[9]. Ông
không quên quà cho các o, cho thím, cho các cháu khi mỗi lần thăm quê. Trong những
quà của ông chứa đựng những giá trị không thể quên mang đậm tâm tư của người
con, người cháu hiếu thảo, người anh biết gửi những giá trị mơ ước cho các em
và sự thân tình với họ hàng quê hương. Chính vì thế ông mãi có được hình ảnh
kính trọng mến yêu trong lòng mọi người.
5.3.7 Ông đóng vai người kết nối
Là người con quê hương, Dòng
họ sống ở Thủ đô, ông là đầu mối kết nối của những chuyến hiếm hoi được đến Thủ
đô trong những dịp công tác, chữa bệnh, viếng thăm, học tập của người thân, họ
hàng, bà con, bạn bè của quê hương nội ngoại và từ những người được giới thiệu
đến gặp... Những năm chiến tranh và cuộc sống hòa bình sau 1975 cực kỳ khó khăn
về nhà ở, thậm chí có lúc căn hộ nhà ông chỉ có 6m2 cho đến khi có
căn hộ riêng, hàng năm ông có rất nhiều lần đón, tiễn, tổ chức ngủ nghỉ, hướng
dẫn đi thăm thú cho hàng chục chuyến đến Thủ đô của người thân và bạn bè. Thời
buổi khó khăn, điều kiện túng thiếu nhưng tấm lòng rộng mở của ông và gia đình
đã làm vui lòng hầu hết các chuyến viếng thăm quý giá. Những năm sau này mọi
người không quên sự quan tâm, nhiệt tình của ông và gia đình trong căn phòng vừa
là phòng khách, là nơi uống trà, là nơi trải chiếc chiếu ăn cơm và cũng là nơi
ngủ trên sàn... Bữa cơm rau cá đạm bạc của cán bộ công chức trong không gian ấy,
tối trải chăn ngủ trên sàn nhưng rất thân tình ấm cúng. Ông bận rộn công tác vẫn
tận tình chỉ dẫn đưa đón, thăm viếng và khi tiễn khách về còn chút quà từ cái
mũ cát, cái áo mưa, bộ quần áo lao động cũ còn mặc được, đôi dép, cái khăn mặt
phân phối chưa dùng, bánh xà phòng để dành... Những chia sẻ đó lớn lao như những
tài sản quý giá được mọi người trân trọng giữ mãi trong lòng. Gia đình ông còn
là nơi trú ngụ về hộ khẩu cho người chờ cơ hội nhập về Thủ đô. Ông làm lặng lẽ,
âm thầm nhưng trân trọng vì ông biết rằng chúng mang thông điệp lâu dài về sự sẻ
chia có tình quê, Dòng họ, máu mủ của người con xa quê. Ông gửi thông điệp đến
mọi người rằng người xa quê dù còn vất vả nhưng không bao giờ quên quê, quên lề,
quên thói, là tấm lòng, là tâm tình, thương cảm với những số phận con người...
Tại cuốn "Lịch sử
Đảng bộ và Phong trào cách mạng xã Đồng Tiến 1930-2015" do NXB Thanh
Hóa ấn hành 2016, tên ông được địa phương nêu tên trong danh sách những người
con địa phương là cán bộ trưởng thành trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội.
[1] Văn bằng Candidate
ở Liên Xô khi đó, Việt Nam gọi là Phó Tiến sĩ, sau đó thống nhất gọi là tiến sĩ
cho tương đương với các hình thức đào tạo quốc tế. Trường Đại học Xây dựng Quốc
gia Mat-xcơ-va ở Liên Xô đến năm 1993 đổi tên thành Viện Kỹ thuật và Xây dựng
Moscow – một trong những trường đại học kỹ thuật hàng đầu về Xây dựng ở Nga
[2] Những
năm 1962-1966, ông Lê Hữu Bản kể lại ông Đỗ thường xuyên gặp gỡ các ông Lê Hữu
Chất, Lê Hữu Quả, Lê Hữu Bản. Khi đó Dòng họ Lê Hữu có 4 ông đều sống ở Thủ đô.
Thông tin này được ông Lê Hữu Bản cung cấp ngày 20 tháng Chạp Tân Sửu (tức ngày
22-1-2022 tại Từ đường. (Từ 1966-1969, ông Đỗ đi học nghiên cứu sinh ở Liên
Xô).
[3] Hơn hẳn chất lượng
tiếng nói được nghe từ cái galen của xóm lấy năng lượng từ hơi nóng ngọn đèn
bão.
[4] Là sinh viên nên
quà cho cả làng chỉ có thể là những viên đường để chia được cho nhiều người, rẻ
hơn kẹo sữa rất nhiều.
[5] Ngày 18-12-2021,
chúng tôi tình cờ gặp được ông Tuợ (ông Tuợ là em ruột bà Bượt, vợ ông Chế),
người cùng tuổi và cùng học với ông Đỗ. Ông Tuợ kể rằng ông Đốc Lương dạy học rất
hay. Gọi bằng "Đốc" có thể trước đây ông giáo Lương làm việc ở cơ
quan đốc học tỉnh. Các học trò lúc bấy giờ khoảng 10-11 tuổi. Học trò cùng lớp
trong làng có các ông Nguyễn Hữu Lơn (Sơn), Nguyễn Hữu Hàm, Lê Hữu Đỗ, Lê Văn
Tuợ... Ông Tuợ còn nói ông Đỗ khi đó học giỏi nhất. Khoảng những năm 1965,
chúng tôi vẫn còn thấy một số sách giáo khoa cất giữ trong nhà hồi ông Đỗ đi học.
Tôi vẫn còn nhớ một số bài như Lòng Trắc ẩn, Cái địa bàn...
[6] Bà tên là Nguyễn
Thị Theo.
[7] Ông thường giúp những
người đã hoàn thành nghĩa vụ quân đội được thoát ly đi công nhân, đi lao động
xuất khẩu... bằng chính sách nhà nước lúc bấy
giờ.
[8] Hồi đó chỉ có thư
từ nước ngoài mới có phong bì loại này. Trong nước là phong bì tự gấp dán bằng
mủ sung hay cơm nguội...
[9] Ông Đượi (xã người
cháu họ bên ngoại) hồi đó bị hen đã nhờ ông mua thuốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét