Nhân ngày giỗ thứ 33 và năm sinh thứ 120 của cha tôi (Các tư liệu được trích tại Phúc Ấm Lê Hữu tộc tôi viết 2021)
4. Vai trò phát triển gia đình, Dòng họ
4.1 Quan hệ và
nhận thức xã hội
Ông là người kiên
cường, bền bỉ vượt qua Thế kỷ XX đầy biến cố đau thương. Các đóng
góp của ông đối với địa phương và cộng đồng cũng chỉ như mọi người
khác lúc bấy giờ là chịu đựng gian khó, tích cực tham gia các hoạt
động địa phương, đi dân công, góp ruộng đất, trâu bò vào HTX. Tuy nhiên,
ông đã biết vươn lên tích cực học hỏi, tích lũy kiến, thức tìm ra
con đường tự giải quyết các vấn đề cho gia đình và Dòng họ.
Ông một mặt gìn giữ,
kế thừa truyền thống gia đình, Dòng họ nhưng mặt khác chống mê tín
dị đoan (bói toán, lên đồng...), tích cực hưởng ứng trào lưu sống
mới, tiến bộ. Những năm 1936-1938 ông đã đi đầu trong phong trào cắt
bỏ búi tóc[1].
Sau năm 1950 ông sớm biết thực hành lối sống vệ sinh: ngủ có màn,
nhà có tủ gạc-măng-giê (garde manger – tủ chạn bát đựng thức ăn),
thực hành ăn chín uống sôi...
Bằng những may mắn và khôn khéo, ông đã tránh được những "trận đấu tố" đau thương, đã đấu tranh kiên trì và hợp lý để được sửa sai thành phần gia đình[2] trong Cải cách ruộng đất từ địa chủ (loại 3) thành phú nông, rồi thành trung nông lớp trên để bảo đảm "sự trong sạch" chính trị cho gia đình và là con đường phát triển cho con cái.
4.2 Phát triển Dòng
họ
Trước sự tàn phá
phong tục triệt để, ông vẫn là đầu mối duy trì nuôi dưỡng Dòng họ
qua các hoạt động thờ cúng tối thiểu, quan tâm thăm hỏi động viên và
kiên quyết gìn giữ những giá trị cốt lõi của Dòng họ:
- Chủ động phân tán
của cải, ruộng đất, đồ thờ tự... để Từ đường không bị tịch thu để
chia quả thực trong Cải cách ruộng đất.
- Giữ được các ngôi
mộ quan trọng của Dòng họ để tránh bị phá hủy trong thời kỳ lao
động tập thể của HTX. Ông lặng lẽ chôn lấp che kín các bia mộ ở Cồn
Nguộc, Cồn Mả Buồn... Nhờ đó sau này có điều kiện xác định chính
xác, rõ ràng nhiều ngôi mộ có giá trị quan trọng của Dòng họ.
- Giữ được nguyên vẹn
gia phả Dòng họ và các quan hệ cốt lõi trong họ hàng, gia tộc.
4.3 Phát triển
gia đình
a/ Vai trò anh cả khi
bố mẹ đã mất
- Ông đã dựng vợ, gả
chồng cho 2 em út: bà Lê Thị Vệ[3] và ông
Lê Hữu Đụa. Giúp làm nhà ở riêng cho em trai út, chia ruộng đất, trâu,
bò cho 2 em trai.
- Những năm HTX đói
kém, ông biết đùm bọc 4 anh em để giúp đỡ lẫn nhau, nhất là trường
hợp 2 em trai có hoàn cảnh khó khăn[4] khi
giáp hạt hàng năm.
- Khi nhà thím (vợ
chú Đụa) hồi còn ở sau điếm Phe Bắc bị bão đổ năm 1962, ông đã thu
xếp đón về ở chung, sau đó dựng nhà cho thím trên đất mới, lo cho
các con của thím đi học. Năm 1975, con trai thím là Lê Hữu Thắng đi bộ
đội về, ông cùng lo làm nhà, lấy vợ, sau đó lo chuyển gia đình thím
sang cơ sở mới có nhiều đất hơn (nhà bây giờ vẫn còn, ở gần Cồn Mã
Bà) để ổn định cuộc sống.
- Duy trì tổ chức giỗ
hàng năm, đặc biệt tạo điều kiện tụ họp đầy đủ cả 5 gia đình anh em
trong những ngày quan trọng (giỗ, tết).
b/ Về tổ chức cuộc
sống gia đình
- Ông biết cách thu
vén cuộc sống và học tập của con cái. Nhờ tổ chức chặt chẽ cuộc
sống, gia đình rất ít khi bị "đứt bữa" trong những ngày đói
kém nhất ở địa phương. Tích cực tăng gia, cải thiện cuộc sống, tiết
kiệm mọi nhu cầu để ưu tiên cho các con có điều kiện ăn học.
- Ông không uống rượu,
không hút thuốc, dành mọi khả năng để nuôi con, nhất là động viên con
cái học hành (khi đó rất ít gia đình cho con học cấp 3). Khi trai cả
học tại trường Đào Đức Thông, ông đã phải bán rất nhiều đồ đạc trong
gia đình (1950-1955) để cho con theo học, nhờ đó con trai ông đã được
cử đi học đại học ở Liên Xô năm 1956. Ông đã dành dụm mua được xe đạp
(thiếu nhi Liên Xô) cho con gái đi học cấp 3 năm 1967. Các con đi học ở
trọ xa nhà (12-15km) đều được lo đầy đủ, nhất là khi ở trọ phải
được lo ăn bằng suất ăn[5] của cả
nhà. Khi 2 con trai đi học chuyên nghiệp, ông đã ngoài 70 tuổi nhưng vẫn
đi chợ xa (chợ Trường Xuân, chợ Cầu Trầu) để bán các sản phẩm tăng
gia gửi tiền cho các con. Khi các con ra trường, ông đã tròn 75 tuổi,
khi đó mới hết tuổi nuôi con đi học. Cuối năm 1980, các con đều đã
học xong, đi làm thì bà Mỹ mất. Ông lúc này tuy được chút an nhàn,
nhưng cô đơn cuối đời vì các con trai đều công tác xa nhà. Ông mất 1993
khi có 4 cháu nội và 2 cháu ngoại. Ông sinh ra và mất tại Từ đường –
nơi ông đã chứng kiến mọi thăng trầm của thời đại và gia đình, Dòng
họ. Thành công chính của ông trong đời là ở sự phát triển của con
cái: con trai cả học Đại học Xây dựng ở Liên Xô (1956-1962), sau đó là
bảo vệ luận án tiến sĩ ở Liên Xô (1966-1969). Cả 4 con ông đều được
học đầy đủ, có 2 con trai là tiến sĩ[6].
[1] Chuyện rằng ông đi chợ Nưa
thấy tuyên truyền cắt bỏ búi tóc cho nam giới, ông đã xung phong cắt
bỏ. Khi về nhà bị cha ông chỉ trích và ban đầu bị một số người
trong làng chê cười (đây là một trong những hoạt động của phong trào
dân chủ Đông dương 1936-1939 của các hướng đạo sinh).
[2] Ban đầu, Đội Cải cách ruộng đất
quy gia đình là thành phần địa chủ loại 3, nhưng qua đấu tố thấy gia
đình đã chia ruộng cho 3 anh em từ trước giảm tô (1949), có hiến một
số ruộng cho người cấy rẽ nghèo nên chuyển sang thành phần phú nông
(vì dù ruộng không đủ tiêu chuẩn địa chủ, nhưng gia đình có thuê
người lao động). Khi sửa sai 1956, gia đình đã chứng minh các lao động
thuê là không thường xuyên (không phải vụ nào cũng thuê, chỉ vụ nào
gia đình vướng con nhỏ hay đau ốm mới thuê người cấy, gặt) và có một
số con em trong gia đình đến giúp chứ không phải đi làm thuê. Điều đó
đã được xác nhận và thành phần gia đình được chuyển xuống trung nông
lớp trên.
[3] Bà Vệ lấy chồng lần đầu
khoảng 1936-1938, sau đó do chồng mất sớm (bị bệnh tâm thần) nên
khoảng 1947-1948 được gả cho ông Lê Quang Khuơ, ông Khuơ khi đó cũng mới
mất vợ.
[4] Ông Lê Hữu Chế vợ ốm, đông con
nên tham gia HTX không đủ công điểm, gia đình có thu nhập thấp. Ông Lê
Hữu Đụa mất sớm do bị ốm khi tham gia phong trào thanh niên (mất 1954
khi mới 30 tuổi), vợ bị khiếm thị, 2 con nhỏ nên không có thu nhập từ
lao động trong HTX, chỉ thuộc đối tượng trợ cấp.
[5] Đi ở trọ thường
phải ở chung với các học trò khác nên việc góp gạo không thể thiếu.
Chiều chủ nhật phải đem đủ 12 ống gạo và không phải ăn độn (1 ống sữa
bò dùng đong gạo = 330g) để ăn đủ cho đến chiều thứ 6 tuần sau. Những
người ở nhà cũng chỉ được ăn 12-15 ống, nhưng phải độn khoai, sắn...
Từ những năm 1965-1967, để bảo đảm điều kiện học hành, ông đã phải
bán cả gạch lát sân và lát nhà, bán cả cái thống đá đựng nước
mưa...
[6] Lê Hữu Đỗ bảo vệ Candidate
(Việt Nam gọi là TS) năm 1969, ngành vật liệu xây dựng tại Đại học Xây
dựng Matx-cơ-va (Moscow). Lê Hữu Ảnh là TS (1996), Phó Giáo sư (2002), Giảng
viên cao cấp (2016) tại Đại học Nông nghiệp I (nay là Học viện Nông
nghiệp Việt Nam).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét