Thứ Ba, tháng 6 03, 2025

Cha tôi – vị Tộc trưởng đời thứ 9 của Phúc Ấm Lê Hữu tộc (kì 4)

 Nhân ngày giỗ thứ 33 và năm sinh thứ 120 của cha tôi (Các tư liệu được trích tại Phúc Ấm Lê Hữu tộc tôi viết 2021)

 

6. Một số chuyện đáng nhớ

6.1 Chuyện ông đi đón dâu

Khi chịu tang bố, mẹ và vợ xong, qua mối lái[1] ông cưới bà Lê Thị Mỹ ở làng Bì, Cổ Định. Hôm đoàn đón dâu đến cây đa đầu làng Bì thì bị dân làng chặn lại và được yêu cầu trả lời một vế đối[2], nếu không đối lại được thì không cho vào làng đón dâu. Đây là tục có tính văn hóa có từ lâu ở quê. Làng Bì thuộc Cổ Định là làng cổ có từ thời Hùng Vương, Cổ Định có tới 24 tiến sĩ làm quan Triều đình, nổi tiếng là đất học xứ Thanh (xem thêm bài Làng Phúc Ấm). Vế đối ra là: "Cây đa làng Bì". Cái khó ở đây là kiểu chơi chữ khá oái ăm: "Bì" có nghĩa là da, tiếng địa phương gọi da là "đa" lại trùng tên cây đa - nơi cả đoàn đang đứng dưới bóng cây. Đoàn đón dâu không ai đối được, xin khất thì không cho nên bèn cử một người khỏe chạy về xin ý kiến các vị có học. Lúc này đã gần trưa mà đường thì xa (hai làng cách nhau khoảng 8 km). Người chạy về đến làng gặp được một số vị có học để xin ý kiến. May thay có ông anh rể họ[3] (là ông Nguyễn Hữu Quế, cha của ông Viên) giỏi chữ Hán nghĩ ngay ra vế đối và nói để người đó chạy vào xin dâu. Khi vào đến nơi đã quá trưa, đoàn đón dâu ngồi đợi dưới gốc đa mừng quá gọi làng ra nhận vế đối. Khi nghe vế đối: "Cái bụng xóm Phúc" người làng Bì đã vui vẻ chấp nhận ngay và khen vế đối chuẩn cả về thanh lẫn nghĩa đen, nghĩa chữ. Số là chữ Phúc () còn có nghĩa () là bụng. "Bì" đối với "Phúc": da đối với bụng (ruột), làng Bì mà đối với xóm Phúc là da đã bao được bụng, làng trùm lên xóm thì đã chuẩn mọi nhẽ. Cả hai họ hoan hỉ đón cô dâu từ làng "Bì - da" về xóm "Phúc - bụng" với điều bất ngờ thú vị của cả người đối, người trả lời như một câu chuyện nhân văn đáng nhớ trong cả hai làng. Nay ông Viên là người chứng kiến vẫn đang ở xóm Phúc còn luôn nhớ và kể chuyện này.

6.2 Chuyện ông được "học mót"

Khi đi giúp việc trong nhà thầy đồ cùng làng, ông đã nhiều lần nhắc bài cho một số học trò. Thầy đồ (là bạn của ông Lê Hữu Đát) thấy ông trả lời được nhiều điều mà thầy đồ dạy cho học trò bèn cho phép ông được "học mót" (kiểu học "ké" không có danh sách), nhờ đó ông biết được chữ Hán Nôm ở mức bình dân. Điều đáng nhớ là từ khi ông được học "ké", một số trò trong lớp có ông giúp thêm đã tiến bộ hơn.

6.3 Chuyện ông đặt tên cho con trai sinh 1957 là Ảnh

Đây cũng được coi là cách biểu thị sự mang ơn có ý nghĩa. Những năm con trai ông là Lê Hữu Đồ học ở trường Đào Đức Thông. Bạn cùng trọ học khi đó là ông Lê Đình Ảnh[4] người làng Cổ Định. Gia đình ông Lê Đình Ảnh có điều kiện kinh tế khá, thường giúp đỡ thêm. Có lần lúc giáp hạt, gia đình đã phải đi "lỏn" những bông lúa chắc xanh về rang lên rồi giã lấy gạo cho con ông đi học. Khi mang đến nhà trọ, các bạn thấy ngon như cốm đã cùng nhau ăn hết, sau đó phải cùng chia gạo ăn chung. Năm 1956, ông Lê Đình Ảnh khi đó cũng đi học Đại học Bách khoa ở Hà Nội nhưng vẫn thường ghé thăm ông mỗi khi về quê. Năm 1957, ông Nhận sinh con trai đã có ý đặt tên Ảnh để nhớ kỷ niệm gia đình có người bạn tốt và có ý mang ơn nghĩa. Ông Lê Đình Ảnh đã đồng ý và cho rằng việc đó làm tăng thêm quan hệ tốt đẹp giữa hai gia đình. Sau này ông Lê Đình Ảnh công tác ở Hà Nội, vẫn là người bạn quý trọng của gia đình cho đến khi ông Lê Đình Ảnh qua đời.

6.4 Chuyện ông dạy trẻ không sợ ma

Ông rất thích trẻ con nên các buổi trưa hè thường có nhiều đứa đến chơi. Khi về già, từ 1980 ông ở một mình nên trẻ con cũng đến chơi đông. Buổi chiều mát có khi ông dẫn một lũ trẻ đi qua làng Vinh xem khỉ (có một nhà bên làng đó nuôi con khỉ). Trẻ thường hay sợ ma, nhưng lại thích kể với nhau chuyện ma. Chúng hỏi ông có ma không, ông bảo: có ma cũng không sợ, nếu thấy ma thì chạy vào nhà và chỉ tay lên nóc nhà kêu to: Khương Thái Công tại thử[5]. Trẻ chẳng hiểu gì nhưng khi dọa ma với nhau thì chúng cùng cười ngặt nghẽo, chạy vào nhà chỉ tay lên câu đầu nhà hô to Khương Thái Công tại thử. Khi các con ông còn nhỏ, đêm tối hay khóc vì sợ thì ông vừa ru vừa kêu là có Khương Thái Công trong nhà đây, không sợ, không sợ... Có bọn trẻ đến chơi với ông đã làm ông bớt vơi nỗi nhớ xa con xa cháu...



[1] Ông mối có tên là Hạng, người  làng Cổ Định, người đã môi giới bán gỗ làm nhà cho gia đình từ những năm 1925-1935.

[2] Tục văn hóa này có khi như trò đánh đố, tuy nhiên khi không trả lời được thì thường xin khất trả lời sau để không bị nhỡ các việc lớn. Việc làng Bì không cho khất khi xin dâu là thách thức từ làng có nhiều người học giỏi.

[3] Ông Nguyễn Hữu Quế là chồng bà Hoàn. Bà Hoàn là con gái đầu của bà Hênh – chị ông Lê Hữu Đát. Bà Hoàn với ông Nhận là con cô (chị) con cậu (em) (Xem thêm Tộc trưởng Đời Thứ 7 và Tộc trưởng Đời Thứ 8). Chuyện còn kể rằng ông Quế lúc đó đã đi cùng tới cây đa còm (Đồng Bến) thì bảo người chạy về rằng cứ đến nói với họ câu này thì họ chắc chắn sẽ cho đón dâu, rồi ông quay về làng.

[4] Ông Lê Đình Ảnh được cử đi  học ở Trung Quốc, sau do "Cách mạng Văn hóa" nên phải về nước và học tại Đại học Bách khoa, Khoa Địa chất, sau này Khoa Địa chất tách ra để thành lập Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Ông công tác tại Tổng cục Địa chất, trước khi về hưu là Vụ trưởng. Ông ở khu Trung Tự, Đống Đa, sau đó về quê Tân Ninh. Ông Lê Đình Ảnh đã mất khoảng 2015(?)

[5] Xem thêm Bài Từ đường Dòng họ. Trong Từ đường trên câu đầu có ghi “姜太公在此” (Khương Thái Công tại thử)/ “(乾元亨利 ” (Càn nguyên hanh lợi trinh) nghĩa là có Khương Thái Công ở đây/ Được hưởng mọi điều tốt đẹp của trời đất. Khương Thái Công là ông Lã Vọng, người có tài trừ ma quỷ giúp nhà Chu dựng nghiệp. Có Khương Thái Công ở đây thì không ma quỷ nào dám đến quấy ám nữa. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét