Thứ Ba, tháng 6 03, 2025

Cha tôi – vị Tộc trưởng đời thứ 9 của Phúc Ấm Lê Hữu tộc (kì 3)

 Nhân ngày giỗ thứ 33 và năm sinh thứ 120 của cha tôi (Các tư liệu được trích tại Phúc Ấm Lê Hữu tộc tôi viết 2021)


5. Giá trị di sản

5.1 Chứng kiến sự suy tàn và có tầm nhìn bảo tồn giá trị

Bối cảnh quê hương và sự tàn phá của văn hóa đã ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến gia đình và Dòng họ. Việc duy trì và gìn giữ được những gì còn lại trước những phá phách nghiêm trọng khi đó ở quê thật là một điều thần kỳ may mắn nhờ số phận và tâm niệm ý thức.

- Các tác động trực tiếp: gia đình bị quy là địa chủ trong Cải cách ruộng đất và bị đấu tố tinh thần, sau sửa sai thành trung nông (lớp trên). Phải triệt phá đồ thờ[1] trong nhà để không bị tiếng lạc hậu, mê tín trong chính sách cải tạo xã hội cũ, xây dựng đời sống mới. Điều đặc biệt quan trọng là đã truyền được ý niệm, niềm tin cho con cháu qua khơi gợi ý thức, khuyến khích học hành, truyền khẩu các câu chuyện quan trọng.

Nhờ khéo léo và may mắn, việc đối xử của Tộc trưởng trong giai đoạn đó vẫn giữ được các giá trị đặc biệt: Từ đường Dòng họ với các kiến trúc cũ từ 1917 (tu tạo 1929 và 1937)[2]; Khu mộ gia đình và một số bia mộ quan trọng; Giữ được gia phả và một số chứng tích từ các đời trước để lại. Có thể nói cả đời ông chống chọi sự phá hoại, ngăn cản các mất mát và tìm cách lưu truyền các giá trị.

5.2 Vượt qua đau thương, nuôi dưỡng tương lai

Nỗi đau của ông là phải chứng kiến rất nhiều cảnh tượng đau thương trong đời: những năm 1937-1940, ông lần lượt mất mẹ, cha và vợ, từ 1938-1954, ông lần lượt mất 8 con thơ. Ông kiên nhẫn sống trên nền tự lập vững vàng, cơ bản tự giải quyết sự tồn tại cá nhân và tỉnh táo đến lúc chết. Hy vọng cuối cùng của ông là chờ đợi những thành quả của hạt giống mà ông đã gieo trồng: các con lấy vợ, có cháu nội, cháu ngoại, sự trưởng thành của con cháu...

Chính vì thế ông nổi tiếng là người thành công trong đời ở địa phương trên phương diện tổ chức cuộc sống và nuôi dạy con cái.

5.3 Tấm gương về tổ chức cuộc sống tiết kiệm, chuyên cần

- Giữ được nề nếp giỗ, Tết: Một điểm rất ngưỡng mộ là ngày giỗ, Tết đều làm nghiêm túc trong điều kiện kinh tế khó khăn. Giỗ đều có mặt gia đình anh em tụ tập, dịp Tết phải mời đủ lượt các em, các cháu. Sáng ngày Mồng 1 Tết luôn chọn mâm cỗ cúng đầu năm cho đàn cháu đến chúc Tết "mở hàng" lấy may.

- Cả đời ông cần kiệm đến mức hà tiện, mọi chi tiêu trên nền tiết kiệm rất nghiêm ngặt đã bảo đảm cho gia đình không bị "đứt bữa", con cái dù khó khăn đến mấy cũng được học hành. Ông rất chịu khó tăng gia để có tiền bán các sản phẩm từ nuôi gà, ngan vịt, chó, mèo, trồng tre, mía, trầu, đan chổi rơm... Cuộc sống tự cung, tự cấp luôn ổn định nhờ tự làm được mắm cáy, mắm tép, tương, cà, tép khô, cá khô... Chỉ mua loại quà khi ăn thì sẽ bớt được gạo (bánh đa, lạc luộc, ngô rang...) để không ảnh hưởng đến kế hoạch lương thực chặt chẽ mà ông đã tính cho từng tháng, từng ngày trong mỗi vụ. Tuy nhiên mỗi năm cả nhà vẫn được 1 lần thưởng thức những thứ không trồng được như một quả dưa hấu, một quả mít, hay dành dụm để có được một bữa xôi kê Tết Đoan Ngọ (5-5), một nồi chè đỗ đen (dã sương) ngày nắng hè. Cứ một vài năm ông lại trồng vườn mía để dịp Tết thuê kéo mật lấy chất ngọt sử dụng dần 1-2 năm... 

- Biết để dành và sử dụng đúng lúc: Trong nhà luôn có những khoản cần thiết: một chút đường, mật mía, dầu xoa, mấy viên thuốc cảm... rồi một chút đậu đen, đậu xanh, kê, gạo nếp... (đựng trong các be sành bé tẹo nút lá chuối khô treo lủng lẳng trong nhà) để dành sử dụng khi có người ốm đau. Những thứ luôn được bảo đảm phòng bị nghiêm ngặt là diêm, muối, dầu hỏa thắp sáng. Về chất đốt: rơm, rạ, củi lá quanh vườn được tận dụng triệt để, phơi cất cẩn thận đề phòng mưa gió, lụt bão dài ngày.

5.4 Tự tích lũy kiến thức, truyền giá trị cho đời sau

- Ông là con trưởng nên phải lo việc nhà sớm, không được đi học, nhưng ông biết chữ Hán Nôm qua cách "học lỏm, học mót" và tự tìm hiểu. Sau này, bằng cách đó ông đọc được chữ quốc ngữ rất sớm trong làng[3]. Ông là người dân duy nhất trong xã đặt báo Nhân dân[4] những năm 1962-1965 mà không giữ chức trách gì ở địa phương. Không ai thực sự hiểu vì sao ông lại thích đọc báo Nhân dân hàng ngày. Có điều nhờ mua báo mà cả hai con trai ông đều biết chữ trước khi đi học, lại có giấy báo để bọc sách vở (và còn bán được giấy báo cũ nữa...).

5.5 Biết cảm nhận thời cuộc

- Ông sớm nhận ra các xu hướng thay đổi nhờ nhạy bén tiếp thu và nhận thức các biến cải xã hội. Các biểu hiện như ông sớm cắt búi tóc, đọc báo, tiếp thu thông tin, sớm nhận ra lợi ích của việc nằm ngủ có màn, lợi ích của việc cất thức ăn trong tủ chạn...

- Từ sau Cải cách ruộng đất, ông sớm nhận ra con đường phát triển và ổn định cuộc sống cho các con sau này không thể dựa vào nông nghiệp mà phải dựa trên kiến thức nên bằng mọi cách ông đã cho con đi học để thoát ly lối sống cũ. Đây là nhận thức rất căn bản để ông dành tất cả tâm tư, dồn sức đầu tư cho con học hành. Việc ông kiên trì đấu tranh để gia đình được hạ thành phần trong sửa sai 1956 là vì sự nghiệp con cái. Nhờ đó con trai cả của ông là thanh niên duy nhất trong xã được cử đi học Liên Xô năm 1956. Ông chấp nhận hy sinh lợi ích gia đình, bản thân, chấp nhận sống cô đơn cuối đời để con cái phát triển trong công tác. Ngày cả khi bà Mỹ mất 1980, ông đã quyết định không cho gọi con trai về để lo ma chay vì lo sợ ảnh hưởng đến công việc các con lúc bấy giờ. Có lúc, ông thậm chí phải bán đi nhiều đồ đạc, đào cả gạch lát sân, lát nhà để bán lấy tiền cho con học với suy nghĩ sau này có điều kiện sẽ xây dựng lại...

Ông chấp nhận cả đời chờ đợi niềm tin các con thành đạt trong công tác, trong lập nghiệp, lập gia đình. Niềm tin đó đã trở thành nghị lực cho ông sống bền bỉ, dẻo dai, chịu đựng lặng lẽ hướng theo con cái. Ông mất trong niềm tin tưởng mơ ước của ông đã thành hiện thực.

5.6 Biết chia sẻ với người cùng cảnh ngộ

- Trong nạn đói 1945, ông và gia đình đã tạo điều kiện giúp người nghèo khổ bằng "nuôi cơm làm công" nhờ đó họ thoát chết đói. Một số người sau này vẫn quay về thăm ông và gia đình để nhớ ơn cứu nạn năm xưa.

- Trong những năm chiến tranh, làng Phúc Ấm luôn có những cơ quan, trường học sơ tán tránh bom đạn. Gia đình ông là nơi trọ thường xuyên của học sinh Quảng Bình[5], các giáo viên, giáo sinh sư phạm 7+3, 10+3 sơ tán. Năm 1972, gia đình vẫn có 3 học sinh cấp 3 Lam Sơn ở trọ. Những năm bộ đội hành quân qua làng vào Nam đánh Mỹ, gia đình ông cùng nhiều nhà khác trong làng được chọn là nơi nghỉ tạm của bộ đội (vì gần đường), cung cấp nước uống, đòn tre khiêng hàng cho bộ đội... Đây là nghĩa cử chia sẻ cảnh ngộ, dành phần không gian bé nhỏ của gia đình cho những người khó khăn với quan điểm giúp con cái người khác cũng như con mình ra đi được người khác giúp đỡ. Nhiều người sau này tìm về liên lạc, ghé thăm để ôn lại kỷ niệm xưa. Một trường hợp đáng nhớ là ông Nhận đã gặp lại được người con trai ông giáo Đốc Lương. Khi ông Đốc Lương mở trường dạy học trò thì có đem theo đứa con trai (tôi không biết tên) học cùng. Người con trai đó cùng độ tuổi với ông Lê Hữu Đồ nên đã đến trọ, ăn ở cùng nhà. Vào năm 1972, trường cấp 3 Lam Sơn sơ tán về làng Phúc Ấm, người con ông Đốc Lương khi đó lại tìm đến nhà ông Nhận để gửi 2 đứa con ở trọ: con gái tên Lý (lớp 9) và con trai tên Long (lớp 8). Ông Nhận coi đây là vinh dự thêm một lần nữa trả ơn thầy Đốc Lương đã giúp con trai học hành khi xưa.

Một trường hợp khác là nhà ông thường xuyên có 2 ông thợ đóng cối xay người Quảng Xương (tên là Kha và Bao) đến trọ. Các ông thợ cứ vài tháng lại đến làng Phúc Ấm đóng cối xay dạo. Các ông ngủ trọ, gửi gạo nấu cơm ăn cùng. Có khi đi đóng cối xay ở làng khác nhưng tối cũng về đây ngủ và ăn cùng.

- Cũng từ đó mà con ông (Lê Hữu Ảnh) khi đi trọ học cấp 3 năm 1973-1974 ở Thị xã Thanh Hóa cũng được trọ học trong một gia đình có người đã từng trọ[6] ở nhà ông.

Qua những chia sẻ cảnh ngộ, nhiều người đã đến thăm ông, nói chuyện (như trường hợp ông Lê Đình Ảnh, các ông giáo dạy 10+3 tên Duyệt và Quyển, cô giáo sinh tên Hồng quê Thiệu Hóa...). Qua đó ông có được rất nhiều thông tin bổ ích về cách nhìn xã hội, nhìn những xu thế phát triển của con cái.  


[1] Trong năm 1954, nhà thờ còn bị trộm đào ngạch vào một đêm mưa bão, lấy nhiều đồ thờ và dụng cụ bằng đồng. Lỗ đào ngạch còn in dấu trên tường sau nhà cho đến 1965 (khi máy bay ném bom đổ tường).

[2] Nhiều gia đình giàu có ở làng Phúc Ấm khi đó đã phải trốn chạy (chủ yếu ra Hà Nội). Nhà cửa, tài sản của họ đều bị chia quả thực cho những gia đình bần, cố nông (lúc đó là giai cấp lãnh đạo trong Cải cách ruộng đất).

[3] Vì "học lỏm" nên cả chữ Hán Nôm và chữ quốc ngữ ông viết đều không đẹp vì ít được thực hành.

[4] Việc ông đặt báo cũng không liên tục, một số tháng các năm 1964 không đặt được do chiến tranh bị thất lạc liên tục. Cách đọc của ông cũng rất đặc biệt: hàng đêm khoảng 3-4 giờ sáng ông nằm trên giường đọc bên ngọn đèn dầu bé tẹo, ông đọc thành tiếng tất cả các mục trong tờ báo. Các con ông vẫn còn nhớ về tin chiến thắng Bàu Bàng (1965), Plei Me (1965) và còn nhớ cả tên phim chiếu, tên rạp trong mục Màn ảnh Hà Nội: Nỗi oan nàng Đậu Nga, Đứng gác dưới ánh đèn nê-ông (là những phim Trung Quốc chiếu khi đó ở Thủ đô tại các rạp Bắc Đô, Mê Linh...).

[5] Hồi đó một số vùng chiến tranh ác liệt như Vĩnh Linh, Quảng Bình, Chính phủ đã có chính sách sơ tán trẻ em, đưa ra các vùng an toàn hơn để học (có nơi gọi là học sinh K8). Đây là chính sách sáng suốt của Bác Hồ về phát triển nhân lực lâu dài cho đất nước.

[6] Như trên đã nêu, học sinh Lam Sơn cùng trọ với cô Lý và cậu Long còn có thêm cô bạn của Lý tên là Nguyễn Thị Vân. Sau này ông Lê Hữu Ảnh cùng 2 bạn trai khác cùng lớp lại được ở trọ nhà cô Vân ở 4 Phan Đình Phùng (nay là phố Nguyễn Trãi, thành phố Thanh Hóa) những năm 1973-1974.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét