Thứ Ba, tháng 6 03, 2025

Cha tôi – vị Tộc trưởng đời thứ 9 của Phúc Ấm Lê Hữu tộc (kì 1)

Nhân ngày giỗ thứ 33 và năm sinh thứ 120 của cha tôi (Các tư liệu được trích tại Phúc Ấm Lê Hữu tộc tôi viết 2021)


1. Thông tin trang phả

1.1 Nguyên văn

Ảnh chụp trang phả Phúc Ấm Lê Hữu tộc
Bản viết năm 1939

1.2 Dịch nghĩa

Vị Tộc trưởng Đời Thứ 9 là Lê Hữu Nhạn, sinh năm Ất Tỵ.

Vợ tên là Lê Thị Chi, sinh năm Kỷ Dậu, giỗ 6-Giêng.

Con trai: Lê Hữu Đồ, sinh ngày 17-3 năm Ất Hợi.

Vợ thứ là Lê Thị Mỡi.

2. Phân tích, bổ sung, cập nhật thông tin

Trang phả Hán Nôm chỉ ghi đến 1941 (sau khi ông lấy vợ lần 2), chưa có thông tin từ 1941 về sau.

2.1 Nhận xét chung

Ông người gầy, cao khoảng 1,66-1,68m, cuộc đời chịu đựng nhiều gian nan vất vả thể hiện rõ trên khuôn mặt. Ông là tấm gương vươn lên trong cuộc sống một cách kiên nhẫn, bền bỉ, dẻo dai... Ông sống giản dị, tối giản theo thực tiễn đến mức hơi "xuềnh xoàng". Về kiến thức, ông biết chữ Hán Nôm và chữ quốc ngữ, ham hiểu biết, thích đọc báo, nghe đài. Trong điều kiện kinh tế khó khăn, ông biết thu vén lo toan cuộc sống gia đình, chăm lo học hành cho con cái. Mọi thành công của ông trong đời đều thể hiện ở sự trưởng thành và phát triển của con cái.

Ảnh tư liệu gia đình (chụp khoảng năm 1990)

Tộc trưởng Đời Thứ 9 Lê Hữu Nhạn (1905-1993) là người đã sống trong cả 10 thập kỷ của Thế kỷ XX, có thể là người thọ nhất trong các Tộc trưởng của Dòng họ. Ông là người chứng kiến kết quả phát triển, chấn hưng Dòng họ ở đầu thế kỷ XX của Tộc trưởng Lê Hữu Đát (cha ông), cũng người trực tiếp chứng kiến những đau thương mất mát, suy tàn về tài sản, phong tục, tình cảm của quê hương, Dòng họ trước các biến đổi của bối cảnh xã hội... Tuy vậy, điều quan trọng là ông biết cách bảo tồn, gìn giữ và duy trì những di sản Dòng họ một cách lặng lẽ, âm thầm, khôn khéo và tinh tế. Kết quả là những gì về Dòng họ tưởng đã lụi tàn, mất đi vĩnh viễn lại được ông tạo nền móng để các con của ông khôi phục, cải tạo, nâng cao giá trị của Dòng họ trong cộng đồng và xã hội. 

2.2 Bổ sung, cập nhật thông tin

Cha ông là Lê Hữu Đát, sinh năm Quý Mùi, mất 28-7 Kỷ Mão. Mẹ ông là Nguyễn Thị Trạc, sinh năm Canh Thìn, mất 1-11 năm Đinh Sửu. Ông là con cả trong gia đình có 5 anh em là: 1/ Lê Hữu Nhạn, sinh 4 tháng Giêng năm Ất Tỵ (mất 8-5 Quý Dậu tức 27-6-1993); 2/ Lê Thị Vị, sinh năm Mậu Thân (mất 30-9-1992); 3/ Lê Hữu Chế, sinh 20-10 năm Đinh Tỵ (mất 5-11-1991); 4/ Lê Thị Vệ sinh năm Canh Thân (mất 23-1-2010) và 5/ Lê Hữu Độ, sinh 10-3 Giáp Tý (mất 1954).

Ông tên Nhạn (các giấy tờ hành chính sau này là Nhận). Nhạn có ý nghĩa chim nhạn bay có thứ tự (có đầu đàn).

Vợ cả tên Chi, người Dòng họ Lê Văn cùng làng, sinh năm Kỷ Dậu (1909, không rõ ngày tháng), mất 6-Giêng năm Canh Thìn (tức 13-2-1940). Bà sinh đẻ 4 lần (3 con mất sớm) và bà đã qua đời khi mới hơn 30 tuổi, để lại trưởng nam Lê Hữu Đồ (tức Lê Hữu Đỗ), sinh 1935.

Bà Chi trong trí nhớ người làng Phúc Ấm là người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, da trắng, tóc dài, xinh đẹp, chăm chỉ, giỏi giang việc đồng áng. Khi làm dâu, điều kiện gia đình chồng tương đối khá giả, nhiều ruộng đất, nhưng công việc tôn tạo Từ đường, làm thêm nhà cho chú, mở rộng thổ cư... bên nhà chồng bận rộn. Bà lại sinh mắn nên cũng vất vả. Từ năm 1935-1940, bà sinh liên tiếp 4 lần, một số bệnh hậu sản phổ biến lúc bấy giờ có thể gây ra nguyên nhân mất quá sớm của bà.

Họ Lê Văn là họ lớn trong làng Phúc Ấm. Bà Chi là chị cả trong gia đình đông con gồm Lê Thị Chi, Lê Văn Quới, Lê Văn Huề, Lê Thị Veng, Lê Thị Nhí và Lê Văn Mai.

Vợ kế tên Mỡi (theo căn cước tên là Lê Thị Mỹ, sinh 4/3/1918), người Dòng họ Lê Văn làng Bì[1], Cổ Định (nay là Thị trấn Nưa). Cha bà tên Lê Văn Nhỡi, mẹ tên Lê Thị Phụng (bà Phụng mất ngày ông Táo, 23-Chạp năm Đinh Mão tức 10-2-1988). Bà là chị cả trong gia đình nông dân nghèo đông con (5 gái 1 trai) gồm Lê Thị Mỡi/Lê Thị Mơi/Lê Thị Mợi/Lê Văn Huệ/Lê Thị Việt/Lê Thị Minh.

Bà Mỡi từ 1942-1959 sinh đẻ 8 lần (5 con mất sớm), còn 1 gái và 2 trai. Bà Mỹ bị đột quỵ não khi đang đi cấy cho HTX chiều ngày 4 Tết, sau đó được chữa tại Trạm xá xã Đông Yên, mất tại nhà ngày Rằm tháng Giêng Canh Thân (tức 1-3-1980).

Ông Nhận và 2 bà vợ có tới 8 trong số 12 người con đã bị mất sớm do những căn bệnh có triệu chứng sốt cao (điều kiện y tế trước 1955 cơ bản không có khả năng giải quyết cơn sốt cao cấp tính, loại triệu chứng sốt cao trẻ em có thể do rất nhiều nguyên nhân gây ra). Trưởng nam tên Lê Hữu Đồ ( sau đổi thành Đỗ) sau là Lê Thị Lý sinh 1951, Lê Hữu Ảnh sinh 1957 và Lê Hữu Cảnh sinh 1959.

3. Niên đại, bối cảnh xã hội

Các biến cố xã hội trước 1939 không gây ra nhiều ảnh hưởng đến địa phương. Vai trò Tộc trưởng của ông từ 1939 đã phải đương đầu và giải quyết nhiều sự kiện lớn, ảnh hưởng đến gia đình và dòng tộc.

3.1 Nạn đói 1945 và Cách mạng Tháng Tám: Thanh Hóa khi đó không bị ảnh hưởng trực tiếp của các chính sách gây ra nạn đói 1945 ở Bắc bộ do Phát xít Nhật gây ra, nhưng dòng người chạy đói di cư từ Nam Định, Ninh Bình vào Thanh Hóa đã tạo ra những xáo trộn nhất định tại địa phương. Nạn con rơi, con ở, cho con, bán con, nạn xin ăn, xin làm mướn của dòng người chạy lên rừng núi kiếm ăn đã để lại ở quê nhiều người dân có gốc di cư Nam Định, Ninh Bình... Cách mạng Tháng Tám ở Thanh Hóa và các tỉnh miền Trung khá thuận lợi, mau lẹ do phong trào địa phương phát triển mạnh nên cơ bản khi nổ ra không có nhiều ảnh hưởng đến kinh tế xã hội làng quê Phúc Ấm.

3.2 Giai đoạn 1946-1956: Đây là giai đoạn có nhiều tác động do các chính sách mới:

Giai đoạn làng Phúc Ấm thuộc huyện Đông Sơn:

- Phong trào diệt "giặc dốt" năm 1946: địa phương đã tổ chức các lớp bình dân học vụ, mọi người trong gia đình đều biết chữ quốc ngữ. Phong trào thanh niên, phụ nữ cứu quốc năm 1946, tự vệ kháng chiến năm 1948: gia đình có em trai là Lê Hữu Đụa tham gia. Chính sách giảm tô năm 1949: gia đình chia ruộng đất, trâu, bò cho 3 anh em, hiến một phần ruộng cho địa phương (chủ yếu phần cấy rẽ cho người nghèo).

- Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954: các huyện ở Thanh Hóa đều tổ chức nhiều đoàn dân công tham gia chiến dịch, ông Lê Hữu Nhận thuộc đội dân công gánh lương thực lên Hòa Bình, Sơn La (xã Đồng Tiến[2] khi đó có 386 dân công, trong đó có đội xe thồ).

Giai đoạn làng Phúc Ấm thuộc huyện Nông Cống:

- Cải cách ruộng đất lần 1 tại địa phương từ 5-1954 đến 9-1954: gia đình bị quy là thành phần địa chủ loại 3[3], sau đổi xuống phú nông. Tháng 11-1956 thực hiện chính sách sửa sai, thành phần gia đình được chuyển từ phú nông xuống trung nông lớp trên.

3.3 Giai đoạn 1957 – đến khi ông qua đời (1993)

- Gia đình tham gia tổ đổi công năm đợt 1 năm 1957, sau đó tham gia HTX nông nghiệp ngay khi thành lập ở thôn (6-1960), góp toàn bộ ruộng đất, trâu, bò vào HTX.

- 1945-1960: chính sách xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng xã hội mới đã phủ nhận nhiều giá trị văn hóa truyền thống, phá bỏ triệt để di sản văn hóa tâm linh: chùa, đình, nghè... Hậu quả của những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, đấu tố giai cấp tiếp tục phá hủy nền tảng giá trị xã hội và tập tục truyền thống trong dân cư, gia đình, dòng họ.

- Từ đường Dòng họ bị hư hại nặng do trận lụt lớn 8-1963 và bị ảnh hưởng do máy bay Mỹ ném bom cầu Tây 7-1965 (bị sập tường, sạt mái, dột nát...).

- Từ 1960 - 1975, chính sách HTX và chiến tranh ác liệt đã gây ra sự nghèo đói kinh tế, tiếp tục xói mòn những giá trị truyền thống, gia tăng sự phá hoại các di tích còn sót lại: mồ mả, cồn bãi...

- Từ sau 1975 có sự di chuyển dân cư tự phát của người dân địa phương vào các tỉnh phía Nam. Những lầm than về đời sống kinh tế bấp bênh, những vết hằn trong phân hóa dân cư chưa được hàn gắn từ thời đấu tố tinh thần, tịch thu tài sản, của cải... lại bị khoét sâu thêm trong chia lìa, rời bỏ quê hương. Người ra đi can đảm tìm đường sống đầy rủi ro, tìm cách xóa đi dấu vết thương đau, những người ở lại sự cam chịu, tâm hồn chai sạn, cằn cỗi, lầm lỳ. Làng quê xơ xác, tiêu điều thiếu sinh khí... nhất là lần cả miền Bắc thiếu lương thực trầm trọng năm 1982. Giai đoạn 1945-1990 là sự suy tàn mạnh mẽ nhất về văn hóa tinh thần, truyền thống gia đình, dòng tộc tại địa phương.



[1] Làng Bì, tên một làng ở các làng cổ ở Cổ Định, những năm 1970 gọi là thôn Tuy Yên, xã Tân Ninh.

[2] Theo "Lịch sử Đảng bộ và phong trào cách mạng xã Đồng Tiến 1930-2015". NXB Thanh Hóa, 2016. Tuy nhiên, cuối 1954 làng Phúc Ấm mới chuyển về Nông Cống, có thể ông đi dân công theo đoàn huyện Đông Sơn.

[3] Trong cải cách ruộng đất quy định địa chủ có 3 loại: loại 1: ác ôn, phản động; loại 2: cường hào, ác bá, tham gia chính quyền cũ; loại 3: có ruộng đất dưới 5ha, không hợp tác với chính quyền cũ. Phú nông: có ruộng đất 1ha, có 1 trâu, bò, tự cày cấy, chỉ thuê phụ giúp. Trung nông (cao cấp hay lớp trên) có ruộng dưới 1ha, có 1 trâu.

2 nhận xét:

  1. Tư liệu ở đâu mà giáo sư viết kỹ như vậy. ? Đọc xong cảm giác như đọc biên niên sử của dòng dõi thời hậu Lê ( trình độ viết sử quá hay)

    Trả lờiXóa
  2. Từ năm 1982 tôi đã bắt đầu thu thập tư liệu và tham khảo nhiều người đương thời về các sự kiện gia đình có liên quan đến địa phương. Vì có ý thức ghi chép tỉ mỉ những câu chuyện nên năm 2020-2021 đã dành 2 năm biên tập và in ấn.
    Cám ơn bạn đã đọc và cho lời khen ngợi qua bình luận nha.

    Trả lờiXóa