Thứ Bảy, tháng 11 30, 2024

Cục Kinh tế QK9: Tuần đi làm đầu tiên – Những điều không như chúng tôi nghĩ

 

Như tôi đã viết ở các bài trước (mục TC-DP IV), ngày thứ 2, 13-4-1981, chúng tôi từ T82 Trà Nóc đi bộ ra lộ đi xe “tuk-tuk” về Cục Kinh tế QK9.

Đến Cục, một vệ binh dẫn chúng tôi vào Hội trường đối diện cổng lớn ra vào. Cả gần chục sĩ quan-kĩ sư tốt nghiệp Đại học Nông nghiệp I vào, một lát sau có người dẫn chúng tôi về chỗ ngủ, không có màn gặp gỡ chào hỏi của vị lãnh đạo nào.

Chúng tôi được đưa đến nhà ngang lớn có 2 phòng rộng, mái tôn, sàn láng xi măng, mỗi phòng chừng 40m2 nhìn ra kênh rạch Cái Khế. Đã có khoảng 1 tiểu đội vệ binh ở 1 phòng, phòng còn lại phía nam có 12 cái giường sắt mới dành cho chúng tôi. Đang ở nhà T82 đơn sơ đến đây thấy cũng vui vì những cái giường sắt sơn đỏ nâu có lát giường gỗ mới tinh, lại rộng cỡ 1,2m được xếp thành 2 dãy có lối đi ở giữa. Chúng tôi mỗi người chọn 1 giường.

Mấy ngày ở cũng không thấy ai đến thăm hay yêu cầu gì về công việc. Chúng tôi chỉ được dẫn nơi ăn, vệ sinh rồi chờ tiếp công việc. Đi loanh quanh trong doanh trại thì thấy có nhiều cây hoa dừa, hoa mười giờ mọc tự nhiên, hoa đỏ, phớt hồng đẹp. Có người nhổ vài cây rồi cho đất vào những thứ có thể trồng được nhặt quanh trại như vỏ đạn, bát sứt, thùng sắt thủng… coi như có chút trang trí nơi ở. Các buổi chiều tối, chúng tôi đi dạo ra phía bắc Cần Thơ cách chừng hơn 1 km ngắm các chuyến phà đến và đi. Thú vị nhất là nhìn các bác xe lôi nhanh nhẹn đón khách đi vào thành phố trên những chiếc xe cũ mà sạch sẽ.

Vào ngày thứ 5, chúng tôi được mời đi nhận quân trang hè gồm 1 bộ đồ dài tay vải nilon dành cho sĩ quan, mũ nhỏ có sao, một đôi giày da kiểu Cô-xư-ghin Nga có tất, một áo đi mưa, không có mũ cối (từ nay không ai đội mũ cối nữa, ngoài đường thấy đội mũ cối là biết ngay là bộ đội Bắc mới vào). Người ta nói đây là quân trang mùa hè, đến mùa đông sẽ có quân trang sĩ quan khác. Thế là chúng tôi có áo quần mới, nhiều chất nilon nóng nhưng nhẹ và bền. Có đôi giày da to nặng nhưng cũng thay thế giày vải đã cũ từ Bắc mang vào. Bộ đồ cỏ úa 4 tháng đã mặc cũng coi như kết liễu.

Tuần đó, cuối giờ nghỉ một chiều có ông cỡ trên 50 tuổi không đeo quân hàm ghé chỗ chúng tôi nhìn nơi ở và hỏi mấy câu bâng quơ. Chỉ như tình cờ nên anh em chúng tôi chỉ mặc đồ lót ngồi gẫu nên không ai chú ý lắm. Cháu Hải (con chị Hai nuôi quân) chừng 7-8 tuổi đến chơi, chàng Thiện hỏi Hải: ông ấy là bố mày à? Nó nghiêm túc: Thượng tá Bảy Sa phó Cục phụ trách chính trị đấy, không phải bố tui. Cháu Hải cùng mẹ ở phòng gần phía Bếp, buổi sáng đi học nhưng các buổi chiều hay ghé chỗ chúng tôi. Hỏi qua nó cũng biết rất nhiều thông tin, nhất là các ông lãnh đạo trong Cục. Cháu mắt hơi nhập nhòe, người nhỏ thó gầy gò nhưng rất nhanh nhẹn. đôi khi nói chuyện với nó vui ra phết, chỉ tội nó không hiểu được hết các chú sĩ quan đùa tếu lối Bắc nên lúc lúc lại khùng bỏ đi.

Sáng thứ 2 tuần sau, vệ binh báo chúng tôi lên phòng để nhận công việc. Phòng thì chúng tôi biết có biển treo trước cửa. Nguyễn Hữu Đào về Phòng Tài vụ thì đã có người đón ngay hôm mới đến về ở cùng anh em trong phòng gần khu nhà ăn. Bính – Giang – Ảnh về phòng Kế hoạch, số còn lại về Phòng Nông nghiệp.

Phòng Kế hoạch là một căn nhà rộng có nhiều cửa sổ, phía sau là hàng rào, ngoài hàng rào có nhà khách của Cục quay ra Quốc lộ 4. Chúng tôi vào chào mọi người và được một anh dẫn vào ngồi 3 cái bàn trống. Trong phòng đã có 5 bàn có người ngồi: 2 vị là sĩ quan và 3 anh trang phục dân sự. Các bàn gỗ cùng kiểu kê không liền nhau ngồi theo hướng quay ra cửa.

Thiếu tá Nguyễn Hữu Chước, trưởng phòng giới thiệu với chúng tôi: đồng chí Đại úy Bùi Phước, phó phòng, các đồng chí trợ lý Nguyễn Thanh Tâm, Nguyễn Hồng Ngọc và Nguyễn Văn Trung. Tôi nhận thấy anh Tâm cười khẽ gật đầu chào chúng tôi khi được giới thiệu, nhưng không biết ai là Ngọc, ai là Trung. Tiếp đến ông Chước nhìn vào giấy đọc tên 3 chúng tôi theo kiểu đồng chí Lê Hữu Ảnh, tôi đứng dậy để mọi người biết và cứ thế với Giang và Bính. Ông cũng không tự giới thiệu. Đấy là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau.

Thiếu tá Chước nói chúng tôi sẽ làm ở đây theo sự phân công của Cục Cán bộ Quân khu và nói qua vài ý về Cục Kinh tế đang ổn định tổ chức, quân số còn tiếp tục được bổ sung. Nhiệm vụ của Cục thì đã bắt đầu triển khai, hiện toàn Quân khu, số nông trường, nông trại đang vào vụ rất khẩn trương…

Tiếp theo, ông Chước đề nghị anh Nguyễn Thanh Tâm tổng hợp tình hình trong tuần. Chúng tôi nghe thấy những con số được anh Tâm  báo cáo theo các tỉnh về số nông trường, nông trại, về tình hình gieo sạ lúa. Anh Tâm nhấn mạnh vài số liệu mới so với tuần trước. Mọi người nghe xong báo cáo của anh Tâm chừng 15 phút là hết. Không còn thấy triển khai công việc gì, ông Bùi Phước cà nhắc đi ra cửa. Tiếp đó ông Chước cũng đứng dậy nói chúng tôi từ nay hàng ngày lên đây ngồi để làm quen với công việc, bây giờ công việc thì chưa có gì, nhưng sắp tới sẽ có nhiều việc phải chuẩn bị để đương đầu với nhiệm vụ cấp trên giao.

Thế là hết buổi giao ban, mọi người ngồi ra bàn uống nước, cũng không ai trao đổi hỏi han gì chúng tôi. Chúng tôi ngồi nghe họ bàn chuyện và im lặng, chỉ có anh Tâm nhẹ nhàng hỏi một số chuyện như vào Nam hồi nào, tốt nghiệp ngành gì. Nghe chuyện, uống trà, nhìn ngó nhau đến khoảng gần 10am, anh Tâm bảo chúng tôi cứ về phòng nghỉ, ở đây cũng chưa có việc gì, các buổi sáng lên để nghe tình hình và nắm bắt công việc.

Như vậy Phòng chỉ có 2 lãnh đạo và 3 chúng tôi là sĩ quan. Anh Tâm cho biết các anh đều mới tốt nghiệp ĐH Cần Thơ, được gọi tham gia quân đội theo chế độ quân nhân quốc phòng.

Tôi rất nhớ tuần đầu này vì chúng tôi đều đang háo hức chờ đón công việc, được phát quân trang mới, được gặp đơn vị mới… Nhưng hầu như mọi điều trong thực tế đều không như những gì tôi nghĩ: họ đón rất sơ sài, không thân mật mà cũng không nghiêm túc. Mọi thứ xuề xòa đơn giản kiểu người Nam. Tôi thấy ông Chước nói mà chẳng ai quan tâm gì, chỉ có anh Tâm nghiêm túc mở giấy đọc cẩn thận mấy con số. Mọi người nghe nhưng dường như chẳng có phản ứng gì. Thực ra mấy hôm trước tôi nghĩ nếu người ta yêu cầu phải giới thiệu gì đó về cá nhân thì tôi cũng đã chuẩn bị vài ý để nói. Nhưng không như chúng tôi nghĩ, buổi đi làm đầu tiên thật vô cùng nhạt nhẽo.

Thế là chúng tôi có trải nghiệm của ngày đi làm đầu tiên trên cương vị kĩ sư-sĩ quan. Từ đây, tôi sẽ kể rất nhiều chuyện theo kiểu nhớ gì viết nấy về những con người trong đơn vị, về những công việc còn giữ được ấn tượng tốt và vui, về những ngày chúng tôi tươi trẻ trong cuộc đời anh bộ đội vùng phương Nam phóng khoáng… Tuy tuần đầu không như chúng tôi nghĩ, nhưng lại cho dấu ấn về dự cảm mơ hồ trong công việc, dự cảm những năm tháng không định hướng cụ thể. Nếu có ai hỏi tôi những ngày ấy có cảm thấy tiếc nuối vì sự mơ hồ lãng phí cuộc đời không thì thật sự tôi không biết trả lời thế nào cho thỏa. Đến nay tôi cũng chỉ nghĩ là CHÚNG TÔI ĐÃ CÓ MỘT DUYÊN PHẬN GẮN VỚI THỜI CUỘC NHƯ HÀNG VẠN CON NGƯỜI CÙNG THỜI!!!    

 

Thứ Ba, tháng 11 26, 2024

Từ “Tằm bèn tủng”… đến “Ruồi kia vẫy”…

(Nhân nhớ lại chuyện dạy con thời trẻ)

Hồi Thảo Tủn còn bé tí, khoảng hơn 1 tuổi, bố lôi trong kí ức ra những câu thơ còn nhớ khi phải học thuộc lòng hồi lớp 1. Hai bài còn nhớ đến nay là bài “Nhện và Tằm”[1] và bài “Con ruồi”[2]. Bố đọc trước, con nhìn miệng đọc theo. Buồn cười nhất là bố đọc: “Chị sao chậm gớm chậm ghê”, con nhại: “Chị sao chậm hớm, chậm hê” (không mở được phụ âm g nên chuyển sang h). Rồi đến câu khó, bố đọc: “Tằm bèn thủng thỉnh đáp rằng”, con đọc theo: “tằm bèn tủng” rồi dừng một lúc lại “tằm bèn tủng…”. Thế là phải ngắt thành 2 câu như sau: “tằm bèn tủng, tằm bèn tủng” tiếp đến: “Tỉnh đáp rằng, tỉnh đáp rằng”. Các câu sau lại suôn sẻ nhưng câu chuyện “Tằm bèn tủng…” cứ đi dọc theo câu chuyện của gia đình theo năm tháng.

Còn bài Con ruồi thì không bị trục trặc gì về cách đọc nhưng bà Tủng bảo bố dạy con kiểu gì mà nói phân với cả gio, rồi vi trùng với cả bệnh tật, nó thì biết gì? Nhưng vì để trẻ biết nghe theo vần, theo âm điệu thì nhớ đến hồi đi học năm xưa mà nhớ chứ đâu có câu nệ gì chuyện nội dung chứ. Vần là chính và cái mà mình nhớ là chính!

Bây giờ lại có chuyện hay mới trên bàn ăn.

Cụ Tổn (Tôn) 91 tuổi đang ngồi ăn thì chộp được con ruồi trên trán. Cụ Tổn vui lắm cười sung sướng. Ông Tỏn cũng cười ngất ngất bịa ra là ruồi bị dính cẳng vào các nếp nhăn nheo trên trán cụ nên không rút cẳng ra được. Thế là bị bà túm cẳng bắt sống. Đúng là một chuyện hay thật là hay.

Thế là lại nhớ chuyện “Tằm bèn tủng…” xưa để sáng tác bài thơ mới.

Đoạn đầu phỏng bài Con ruồi

 

“Con ruồi đậu ở vành tai

Bỗng dưng nổi máu ra oai nhảy liều

Rơi ngay vào trán nhăn nheo

Chưa kịp rút cẳng đã keo dính rồi”

 

Đoạn sau tiếp phỏng bài Nhện và Tằm

 

“Cụ Tổn nhăn trán bắt ruồi

Bà Tủng thấy thế vừa cười vừa khen

Chưa già nên vẫn nhiều khôn

Trán nhăn một cái thành luôn bẫy ruồi

Ruồi kia vẫy/cánh kêu trời

(Đọc kiểu Tủn: Ruồi kia vẫy - Ruồi kia vẫy

Cánh kêu trời - cánh kêu trời)

Nay ta gặp nạn dưới ngôi trán già

Rằng ai chớ dại như ta

Oai mà mắc bẫy oan gia có ngày

Oai mà vô ích làm chi!



[1] Bài NHỆN VÀ TẰM
Nhện kia chăng lưới bẳt ruồi
Thấy tằm kéo kén vừa cười vừa chê:
Sao anh chậm gớm chậm ghê
Làm có cái kén rê rê hàng ngày
Trông tôi thoáng cái xong ngay
Chỉ cần giây lát là đầy mạng chăng
Tằm bèn thủng thẳng đáp rằng:
Làm nhanh chóng hỏng cũng bằng như không
Thà rằng chịu khó lâu công
Làm đâu được đấy thong dong vội gì
Vội mà vô ích làm chi!

Sau này sách Giáo khoa in 1977 có sửa lại các câu cuối như sau

“Thà rằng chịu khó nhọc công

Làm đâu được đấy sức không phí hoài

Làm bền làm tốt mới tài

Có chi hay dở mà đòi hơn thua"

 [2] Bài học thuộc lòng lớp 1 (không có tên bài) có một dòng chữ Ghi nhớ: Cần phải diệt ruồi. 

“Con ruồi đậu ở chuồng phân
Rồi bay đến đậu thức ăn vật dùng
Đem theo bao giống vi trùng
Sinh nhiều bệnh tật vô cùng nguy nan
Thức ăn phải đậy lồng bàn!”

 

Thứ Bảy, tháng 11 23, 2024

Bài 14: Những trải nghiệm và học hỏi

 

Từ 15-12-1980 nhập ngũ tại sân đình làng Mông Phụ đến 15-3-1981 rời khỏi bãi đất đầu làng Mông Phụ về Hà Nội để 17-3-1981 lên tàu đi Nam, chúng tôi có 3 tháng bên nhau. Trừ mấy ngày được về quê nghỉ Tết Tân Dậu, chúng tôi có hơn 80 ngày đầu quân ngũ trên vùng đất linh thiêng vượng khí thuộc phiên hiệu đơn vị C4, D354, E826.  

Tôi muốn kết thúc những chuyện “Những ngày đầu quân ngũ” mục Thời cuộc và duyên phận bằng vài tổng kết dưới đây coi như là những trải nghiệm và học hỏi. Chúng tôi khi ở trường đại học chỉ có được mảnh ghép cuộc sống khá chật hẹp, khép kín. Mặc dù có được những ngày đi lao động thực tế hay đi thực tập giáo trình, thực tập tốt nghiệp thì cũng chỉ là các quan sát cuộc sống với những gì mình học để đối chiếu so sánh, nhưng chưa từng được chủ động vì luôn có thầy, có bạn, có những quy định phải làm. Nay chúng tôi đã được nhiều tự do để nhận thấy cuộc sống một cách độc lập nên có những trải nghiệm thú vị để có thể nhận ra một chút giá trị mà chúng tôi có được trong mỗi con người.

Lần đầu tiên chúng tôi được tiếp xúc với cả gần trung đoàn những trí thức trẻ bên nhau. Họ đến từ nhiều ngành nghề bậc đại học vừa tốt nghiệp, lại có cả anh em từ nước ngoài. Tập hợp nhau lại đã thành cả “cả núi” tương tác, chia sẻ, trải nghiệm quý. Chúng tôi có dịp nhận ra mình so với “thiên hạ” ở nhiều điểm dưới đây:

Bài 13: Chuyện “tếu táo” bên những quán nước chè

 

Ngồi quán uống chè là chuyện hàng ngày của bộ đội khi ấy. Chúng tôi được tự do đi lại, hơn nữa do đơn vị không đủ nước uống nên cứ ăn xong là ra quán ngồi uống nước, nói chuyện gẫu, ăn kẹo…

Quán sá ở đây đều tạm bợ, chủ yếu là những người dân thôn Văn Minh ra đồi cây gần doanh trại che tạm các lán sơ sài để bán nước chè xanh, chè chén, mấy lọ kẹo dồi, chè lam… Trước khi chúng tôi doanh trại thì chưa có, gần Tết thấy mọc lên vài quán, sau đó qua Giêng thì bắt đầu có thêm khoảng gần chục quán. Có lẽ trước đó người ta không cho dân bán hàng cạnh doanh trại hoặc doanh trại cấm tân binh ra quán chăng? Nhưng từ khi chúng tôi đến thì không cấm được nên người dân mở quán kiếm thêm chút thu nhập.

Thứ Sáu, tháng 11 22, 2024

Bài 12: Bác chăn bò và tài dân vận của Trần Hữu Giang


Việc cải thiện bữa canh rau nấu trai diễn ra được khoảng chục ngày thì chúng tôi dừng, một phần vì ăn nhiều trai cũng chán, phần khác do một số người dân biết phát hiện của chúng tôi nên đã “khai thác” thường xuyên hơn và sự khan hiếm tất nhiên xảy ra. Trời có cho ai mãi được đâu, thế cũng đủ. Chúng tôi được thiên nhiên ban tặng sản vật để hưởng thụ trong hoàn cảnh ấy đủ vui, đủ khoái lạc rồi.

Một hôm trên đường đi quán uống chè về, cả bọn gặp bác nông dân đang dắt 1 con bò vàng nhỏ gặm cỏ ven đường. Giang lên tiếng chào, bác nông dân cười chào lại. Nói chuyện linh tinh một hồi, Giang hỏi bác có con gái ở cùng bác không rồi gạ bác cho chúng tôi vào chơi. Bác nông dân đồng ý và dắt bò về, chúng tôi cùng đi nói chuyện với bác.

Bác chắc khoảng gần 60 tuổi, người nhỏ, hom hem kiểu đói ăn hay ốm bệnh gì đó. Chiếc áo cũ màu vàng đất đồi gần như lông con bò có lẽ không đủ ấm với bác. Con bò gầy còm và bác cũng gầy đến độ hom hem nhưng lại như rất ăn ý và hợp cảnh. Bác nói chuyện chậm rãi, cười rất hiền lành chân thật. Trên đường đi, Giang là người nói chuyện chính, chúng tôi đi theo nghe và phụ họa đôi câu.

Thứ Năm, tháng 11 21, 2024

Bài 11: Phát hiện nguồn thực phẩm quý và uống rượu Rằm Tháng Giêng trên đồi cây


Sau khi được nghỉ Tết về đơn vị, chúng tôi ngồi chờ phân công trong tình trạng tự do rong chơi hàng ngày. Nhóm chúng tôi bắt đầu khám phá cảnh quan hồ đầm quanh doanh trại.

Đi chừng gần 500m là đến 1 đầm lớn mà ở sân trên đồi doanh trại cũng nhìn thấy về phía đông. Nay ở Google Map thấy có tên đầm Dương. Cả nhóm ăn sáng xong đi dạo ra phía đầm. Năm ấy sau Tết không rét lắm, sang Giêng lại có nắng ấm. Cả bọn đến đầm lớn, nước trong, gió thổi gợn sóng vào bờ phía chúng tôi đứng ngồi ngắm hồ. Anh Mo Lan nói đầm này thông đến tận hồ Suối Hai và anh bảo: ở đây có thể có rất nhiều hến, để tôi thử lội xem. Xin nói thêm là anh Lan lúc này đã có vợ, anh cưới vợ vào ngày 29 Tết, nhà anh cách nhà tôi chưa đầy 10km nên tôi đã được vào dự đám cưới anh chị. Mấy ngày sau, anh chị đến chơi và ăn Tết với gia đình tôi.

Thứ Ba, tháng 11 19, 2024

Bài 10: Đi thăm các điểm quanh doanh trại

 

Sau “sự cố Khoa mục AK”, chúng tôi không phải tập trung huấn luyện gì nữa. Hàng ngày đi dạo chơi quanh vùng, trưa về ăn ngủ rồi chiều lại đi đâu đó… Dưới đây là 2 mẩu chuyện tôi còn giữ được nhiều ấn tượng nhất.

Thứ Hai, tháng 11 18, 2024

Bài 9: Đi tải gạo – phát hiện năng khiếu mới

 

Vào những ngày đầu chúng tôi mới vào doanh trại, khi chưa được trả quân hàm sĩ quan, chúng tôi bị “coi như tân binh” nên được huấn luyện và thực thi các quy định rất vô lí như tôi đã nói ở các phần trước. Dưới đây là một chuyện trong số đó, nhưng đối với nhóm chúng tôi thì lại là một kỉ niệm đáng nhớ.

Một buổi sáng cuối trước ngày 20-1-1981[1], chúng tôi được yêu cầu mang theo balô (ba lô rỗng) đi bộ xuống Sơn Tây tải gạo cho Trung đoàn. Cho đến nay tôi cũng không rõ đây có phải là yêu cầu huấn luyện hay chỉ là tình huống cho việc đơn vị thiếu phương tiện vận chuyển. Nếu cả tiểu đoàn đi lấy gạo thì cũng giải quyết được khẩu phần ăn cho đơn vị được cả tháng.

Thứ Sáu, tháng 11 15, 2024

Bài 8: Đi chợ Mía và thăm chùa Mía

 

Mấy ngày đầu tiên ở làng Mông Phụ chúng tôi đi dạo quanh làng, nơi đầu tiên đến là chợ Mía và thăm chùa Mía.

Chợ là nơi thể hiện văn hóa địa phương tổng hợp nhất, khách quan, toàn diện, hiện thực. Chỉ cần thăm chợ địa phương ở bất kì nơi nào mình đến sẽ thấy ở đó hồn quê hiện về: ta nhớ mẹ ta, chị ta khi gặp các bà, các chị ở chợ quê xa lạ ấy. Hình ảnh chợ quê nơi xa nào đấy sao vẫn rất giống quê ta thuở tuổi thơ mỗi người. Còn sản vật địa phương và những món ăn dân dã nơi ấy là cái để ta so sánh với quê nhà, rồi chúng ta mắc bệnh làm ồn ào lên giọng “ở quê tớ ấy à”[1] như là tiếng khoe tự hào nơi mình xuất thân.

Thứ Năm, tháng 11 14, 2024

Bài 7: Những trải nghiệm “tếu táo” đầu tiên của những chàng sĩ quan-kĩ sư kinh tế nông nghiệp

  

Tôi nói rõ thêm là nhóm 7 người cùng lớp đi bộ đội ở Trung đoàn 826, nhưng Âu Dương Đức là kĩ sư-lính nên tập trung ở tiểu đoàn khác và không có tên trong những trải nghiệm “tếu táo” tôi viết ở đây. Trong số 6 chàng thì có Nguyễn Hữu Đào khi học đại học là ở Tổ 2, còn lại đều ở Tổ 1 (riêng Cao Ngọc Đức sau năm thứ 3 chuyển sang Tổ 3). Cùng tổ học tập tức là cùng ngủ chung phòng trong kí túc xá. Sự cố kết của chúng tôi một thuở có nền tảng lâu dài. Sau đó cả 6 chúng tôi đều đi Nam trên 1 chuyến tàu, Lê Ngọc Lan đi QK5, Cao Ngọc Đức đi QK7, Bính - Giang - Đào - Ảnh vào QK9. Tiếp đó Âu Dương Đức cũng vào QK9 nhưng đi bằng tàu biển Thống nhất không đi tàu hỏa như nhóm chúng tôi.

Thứ Tư, tháng 11 13, 2024

Bài 6: Một số chuyện khó quên khác

  

Chuyện quanh bếp ăn tiểu đoàn

Từ sau khi bỏ huấn luyện, bộ độ hàng ngày đi chơi loanh quanh trong vùng rồi chờ đến giờ thì đi ăn. Vì tự do đi lại không ai quản được nên nhiều người bỏ cơm, đến giờ ăn chỉ có số có mặt vào lấy hết những phần cơm đã chia ở bếp tiểu đoàn. Đại loại nhóm nào có người đi vắng thì lấy cơm của họ, nhưng có nhóm đi vắng nhiều người thì cuối cùng là ai cùng vào lấy, mạnh ai lấy đó, nhưng vì thừa nhiều nên không có ai mất cơm cả. Chuyện lao vội vào lấy cơm, lấy tất cả mọi thứ rất nhốn nháo đáng xấu hổ. Tụi “anh nuôi” thấy thế cũng chẳng nói gì. Anh nào đến chậm thì chắc chắn biết không còn cơm để dành cho mình nên không đến nữa hoặc tìm nhóm quen của mình mà ăn chung.

Cơm bộ đội thì nếu ăn mỗi người 1 suất cũng đủ, không đói. Tiêu chuẩn lương thực cao 21kg/tháng, nhưng thức ăn thì có rất ít. Khi ăn không hết cơm, bộ đội cho cơm vào mũ cối đem ra các quán ven đồi đổi lấy nước chè xanh, kẹo dồi, thuốc lá… Các quán dạo này mọc quanh lán trại ngày càng nhiều, ngồi tếu táo uống chè tán gẫu vui đáo để, nhất là một số quán có mấy cô gái thôn nữ xinh xắn bán chè xanh…

Những ngày này bộ đội được chia khẩu phần bị ăn bớt rất tệ. Một số anh em phản ứng kêu gọi yêu cầu kiểm tra bếp ăn. Có người thấy cán bộ khung lấy cơm về có suất cơm với rất nhiều thức ăn ngon trong khi cùng tiêu chuẩn như nhau. Anh nuôi quân nói một câu tôi còn nhớ đến tận bây giờ: “miếng ăn là miếng nhục nhưng miếng nhục là cục thịt nạc”. Nghĩ đến mà não lòng!

Bài 5: Khoa mục bắn súng AK-47 và Báo động di chuyển đêm mưa gió

Khoa mục bắn súng AK-47

 

Buổi sáng ấy, tiểu đoàn tập trung 2 đại đội nghe Khoa mục bắn súng AK-47. Phụ trách tập hợp anh em ngồi trong sân doanh trại. Một trung úy hướng dẫn, có cái bàn kê và khẩu AK[1] với Khoa mục được giới thiệu 4 phần: Cấu tạo - Tính năng - Sử dụng - Tháo lắp và Bảo quản.

Phụ trách khoa mục giới thiệu phần cấu tạo nhanh, có vẻ tự tin kiểu thuộc bài. Thấy bộ đội yên lặng không nói gì, anh ta có vẻ hưng phấn. Phần tính năng, giáo viên nhấn mạnh tính liên thanh và điểm xạ của AK. Đang cao hứng thì một bộ đội giơ tay xin hỏi: Thưa đồng chí giáo viên AK là gì ạ? Anh giáo viên im lặng, lúng túng 1 hồi. Bên dưới bộ đội ồn ào, cười và nhốn nháo. Có tiếng huyết sáo trêu chọc. Giáo viên đỏ mặt trả lời: Các đồng chí đừng nghĩ là tôi không biết nhé. Tôi có ghi AK trong sổ tay để  ở nhà. Đừng tưởng tốt nghiệp đại học và tốt nghiệp đại học nước ngoài về mà coi thường chúng tôi nhé. Đừng tưởng chúng tôi không biết AK là gì. Tôi sẽ về lấy sổ ra đây để các đồng chí thấy.

Bộ đội càng cười to, nhốn nháo còn giáo viên lúng túng không biết xử lí thế nào. Bộ đội bỏ hàng ngũ cười ngả nghiêng và tự giải tán buổi khoa mục. Anh hướng dẫn khoa mục tức tối nhìn theo mà không làm gì được. Cũng từ đó phát sinh các vấn đề giữa cán bộ quản lý đơn vị và bộ đội.

Thứ Năm, tháng 11 07, 2024

Bài 4: Doanh trại trên đồi bạch đàn thôn Văn Minh

 

Những ngày đầu chúng tôi vào doanh trại đơn vị huấn luyện tân binh thuộc Tiểu đoàn 354, Trung đoàn 826 (có lẽ thuộc Quân khu Thủ đô). Doanh trại đóng trên những quả đồi trồng cây bạch đàn thưa thớt thuộc địa phận thôn Văn Minh, xã Cam Thượng, Ba Vì[1], Hà Nội. Khu đồi xa dân cư thôn Văn Minh chừng 1km, cạnh các đồi có một đầm tự nhiên lớn. Có khoảng hơn chục lán trại dành cho 4 đại đội (mỗi đại đội 3 lán). Chúng tôi ở Đại đội 4, các bạn chưa qua sĩ quan dự bị ở Đại đội 3.

 


Google map cho thấy từ đình Mông Phụ đến chỗ đóng quân là 4km. 
Đầm tự nhiên cạnh nơi đóng quân tên là Đầm Dương thôn Văn Minh có nhiều trai hến.

Thứ Ba, tháng 11 05, 2024

Bài 3: Nhập ngũ nơi đất thiêng vượng khí


Chúng tôi chỉ biết là xe đưa đến Sơn Tây – khi đó Sơn Tây được mệnh danh là “Thủ đô của lính” vì có rất nhiều trường quân sự, nhiều đơn vị bộ đội đóng quân ở đây.

Xe đưa chúng tôi đến cổng một sân đình lớn, rộng rãi. Hỏi mới biết là đình làng Mông Phụ xã Đường Lâm, Sơn Tây. Đội đưa tiễn Đoàn Thanh niên chào suông mấy câu rồi vội vã cuốn cờ ra về không tỏ cảm xúc gì ngoài biểu thị việc “tống tiễn” đã xong. Mấy cán bộ nhận quân tập hợp chúng tôi thành hàng lối, điểm danh, phổ biến ngắn và phát quân trang tân binh. Quân trang gồm quần áo lính, bộ lót, ba lô, chăn chiên, chiếu, bát sắt tráng men, mũ cối có sao, giày vải có tất, thắt lưng, mỗi thứ 1 cái (nghĩa là khi giặt thì phải chờ khô mới có cái thay). Sau đó là phân theo từng nhóm về nhà dân ở và hướng dẫn nơi ăn tạm tại sân kho HTX gần đó. Mọi người tranh thủ thay quân phục mới rồi đi ăn trưa. Nhìn đội ngũ đeo ba lô có cái chiếu vòng quanh sau lưng đi thành hàng cũng vui mắt, không còn lốm đốm mỗi đứa 1 màu như khi mới xuống xe.

 

Đình làng Mông phụ (ảnh trên Google)

Thứ Hai, tháng 11 04, 2024

Bài 2: Tạm biệt Đại học Nông nghiệp I – Chúng tôi lên đường


Sau “lễ tốt nghiệp” khóa 2 Sĩ quan dự bị, ngày 9-10-1980 chúng tôi trả quân trang, nhận các giấy tờ rồi về quê chờ công tác. Tôi băn khoăn một chút về việc trả lại quân trang (một bộ quần áo dài, một mũ, một giày, một thắt lưng, chỉ có đôi tất chân là không thu lại) sau 3 tháng luyện tập mà thu về thì còn dùng sao được nhỉ, ai sẽ là người dùng lại?

Chỉ 1 tháng sau, UBND xã tôi gọi tên lên giao cho tôi giấy báo tuyển quân sự đợt 2-1980. Giấy được gửi từ Đại học Nông nghiệp I qua UBND xã Đồng Tiến (Số 1/ĐH1/TC do Hiệu phó Nguyễn Đức Bình kí ngày 6-11-1980) yêu cầu địa phương và cá nhân chấp hành gấp theo lối vừa động viên lại vừa như “uy hiếp”.

Thứ Sáu, tháng 11 01, 2024

Bài 1 – Huấn luyện sĩ quan dự bị - duyên phận sĩ quan chính thức

 

Sau tốt nghiệp đại học, chúng tôi có những ngày nhàn tản cuối tháng 5/1980. Một số người thạo tin nghe ngóng, bàn luận chỉ tiêu phân công công tác. Đa số nằm khàn chờ ‘số phận’ ban xuống. Tưởng đã an bài theo kiểu cán bộ nhà nước hưởng lương để các chàng trai ‘ngờ nghệch’ như chúng tôi sẽ vào cơ quan địa phương (tỉnh, huyện) hay cục, vụ, viện, nông lâm trường, trạm, trại… gì đó để nhận công tác suốt đời thì cuộc sống lại ‘bẻ ghi’ để chúng tôi sang hướng khác.

Tôi về nhà được mấy ngày thì nhận được quyết định của Hiệu trưởng (kí 4-6) yêu cầu phải có mặt vào 26-6 để tham gia huấn luyện sĩ quan dự bị.