Thứ Năm, tháng 11 07, 2024

Bài 4: Doanh trại trên đồi bạch đàn thôn Văn Minh

 

Những ngày đầu chúng tôi vào doanh trại đơn vị huấn luyện tân binh thuộc Tiểu đoàn 354, Trung đoàn 826 (có lẽ thuộc Quân khu Thủ đô). Doanh trại đóng trên những quả đồi trồng cây bạch đàn thưa thớt thuộc địa phận thôn Văn Minh, xã Cam Thượng, Ba Vì[1], Hà Nội. Khu đồi xa dân cư thôn Văn Minh chừng 1km, cạnh các đồi có một đầm tự nhiên lớn. Có khoảng hơn chục lán trại dành cho 4 đại đội (mỗi đại đội 3 lán). Chúng tôi ở Đại đội 4, các bạn chưa qua sĩ quan dự bị ở Đại đội 3.

 


Google map cho thấy từ đình Mông Phụ đến chỗ đóng quân là 4km. 
Đầm tự nhiên cạnh nơi đóng quân tên là Đầm Dương thôn Văn Minh có nhiều trai hến.

https://lehuuanhghichep.blogspot.com/2024/11/bai-3-doanh-trai-tren-oi-bach-thon-van.html

Lán trại loại tạm thời tranh tre nứa lá. Mỗi trung đội 1 căn lán có 4 gian: 1 gian của cán bộ phụ trách tiểu đội, 3 gian lớn hơn dành cho 3 tiểu đội. Trong mỗi gian có cái phản nứa kiểu đóng cọc gỗ xuống nền đất và kê tre nứa thành chỗ nằm, mỗi khi cựa mình có kêu ọt ẹt. Tôi được phân vào Tiểu đội 2 nằm ở gian giữa, không rõ lúc ấy các bạn cùng trường ở trung đội, tiểu đội nào nhưng không có ai ngủ cùng tôi ở Tiểu đội 2. Tiểu đội tôi có 5 kĩ sư-sĩ quan ngành giao thông và xây dựng.

Các lán trại của tiểu đoàn rải rác mấy quả đồi. Mùa đông trông có vẻ ảm đạm với bạch đàn thưa lá, nhà tranh vách nứa tiêu điều. Giữa các trại là lán kho dụng cụ và bếp ăn tiểu đoàn. Bàn ăn thì cũng đóng bằng cây có rải nứa làm mặt bàn và mặt ghế kê ngoài trời, bên trên che những tấm phên nứa, đại loại là khó chống được mưa nắng. Doanh trại trên đồi cây nên các giếng nước được đào ở dưới chân đồi, sát mặt ruộng, không tiện sinh hoạt lắm nhưng bấy giờ là mùa đông nên mọi người cũng chỉ rửa mặt là chính, rất ít tắm giặt.

Như quy định của đơn vị huấn luyện tân binh, chúng tôi được gọi dậy tập thể dục sáng, ăn sáng và nghe hướng dẫn công việc. Những ngày đầu là nề nếp ăn ở. Phụ trách tiểu đội tôi là hạ sĩ tên Thêm (quê ở Đông Anh) hướng dẫn gấp chăn rất vuông ở đầu chỗ nằm mỗi người, có giá để ba lô và mũ, lại có những móc treo bát sắt tráng men thành hàng lối trông đẹp mắt. Các cán bộ đại đội hoặc tiểu đoàn tập trung hướng dẫn các bài kĩ chiến thuật cho bộ đội một số ngày đầu. Sau này bọn sĩ quan dự bị không chịu tập, nhất là từ ngày 20-1-1981 chúng tôi được trả quân hàm thiếu úy (tức là sau 1 tháng 5 ngày kể từ khi nhập ngũ). Thế là xảy ra chuyện cấp đại đội cũng chỉ có quân hàm cùng cấp chúng tôi, còn bọn chỉ huy trung đội, tiểu đội đều hạ sĩ quan nên không ai chịu nghe chúng nữa. Đại đội 4 của chúng tôi có chính trị viên tên Dánh là tôi còn nhớ vì anh này sau đưa chúng tôi vào giao cho nhà khách T82, Quân khu 9.

Những ngày đầu cũng không có gì đáng nói, lác đác cuối tuần có khách đến chơi, nhất là khu lán Đại đội 3 của các anh đi học nước ngoài về. Đôi khi có bóng hồng đi dạo với áo lính dưới chân đồi mùa đông lôi kéo những ánh nhìn thèm thuồng ghen tị. Những hôm ngồi chơi, tiểu đội tôi có mấy chàng giao thông mang theo cây đàn ghita tưng tưng đỡ buồn. Một anh bạn học ngành tín hiệu giao thông hướng dẫn tôi bài dân ca cho đến nay tôi vẫn còn nhớ lời: “Ông trăng xuống chơi cành cau thì canh cau cho mo, ông trăng xuống chơi học trò thì học trò cho bút”[2]

Rõ ràng chúng tôi được đưa đến để chờ phân công công tác nhưng đơn vị lại sử dụng chính sách áp dụng cho tân binh để huấn luyện các sĩ quan là không phù hợp. Hơn nữa đây là lính trí thức có trình độ cao nên cấp tiểu đoàn, trung đoàn cũng rất e ngại khi tiếp xúc. Từ chỗ trêu đùa thành tự ái cá nhân rồi đi đến các mâu thuẫn không đáng có với những chuyện “dở khóc dở cười” tôi sẽ trong các bài sau. Do đó, từ khi có quyết định trả quân hàm thì bộ đội coi như được tự do đi lại, chỉ đến bữa là đi ăn, không phải làm gì, nhiều người bỏ đi vài ngày cũng không ai biết. Bỏ cơm, bỏ ngủ, rất tùy tiện, nhất là đang những ngày giáp Tết Tân Dậu (1982).

Nghe nói lúc này trong khu làng Mông Phụ và các làng lân cận cũng có chuyện bộ đội đòi tự nấu ăn tại nhà dân, những toán lính đi vào trường Trung cấp Thương nghiệp cạnh đó chơi trêu chọc nữ sinh làm nhà trường không dám mở cổng, các em nữ sinh thì rú rú trong phòng sợ lính mà lính thì cứ thản nhiên trèo tường vào… Đây cũng là lúc các tài ba văn nghệ sáng tác linh tinh. Nhiều người trong chúng tôi vẫn còn thuộc bài “Văn tế sĩ quan chợ Mía” của anh Lập[3] (Đại học Tổng hợp văn sau này là nhà văn Nguyễn Quang Lập) và lời “nhái nhạc” của bài hát nào đó: “Văn Minh chốn nơi đây xa vời, anh lại đến bên tôi, cùng chia chung điếu thuốc cùng vui ngắm trăng trên đồi. Chiều nay, mấy đứa buồn…”. Bài hát này có lúc được cả trăm người hát hôm chúng tôi tập trung ở bãi đất trống làng Mông Phụ trước khi về Hà Nội để đi tàu vào Nam.

Ở các bài sau tôi sẽ tóm tắt những mẩu chuyện để nhớ lại những ngày này: Chuyện khoa mục súng AK; Chuyện báo động chuyển quân trong đêm mưa rét; Chuyện bộ đội chặt cây phá hoại; Chuyện quanh bếp tiểu đoàn và lính mới mất cơm…

Bây giờ nhìn lại mới thấy những ấu trĩ quản lý bộ đội lúc ấy. Tôi nghĩ khi đó không ai đủ tầm quản lý cả ngàn kĩ sư, bác sĩ nhập ngũ chờ công tác được nhốt trong cái “rọ người” xứ này. Họ là những trí thức đầy nhiệt huyết và trí tuệ nhưng vì không kịp phân công về các đơn vị công tác nên đã gây ra sự dồn nén cảm xúc, dồn nén năng lượng và tư tưởng để tạo ra các phản ứng có phần quá đáng. Không biết khi đó có chuyện kiểm điểm hay rút kinh nghiệm gì với các cán bộ và họ đã giải thích thế nào về chúng tôi với địa phương?

Cũng phải nhận rõ là nhóm anh em kĩ sư nông nghiệp chúng tôi rất giản dị hiền lành. Chúng tôi không “đầu têu” trong những câu chuyện không hay, có chăng chỉ là chứng kiến, một chút tham gia một phần nhưng cơ bản là vô hại. Tuy vậy cũng học hỏi, trải nghiệm “thiên hạ” được chút ít bởi nếu không có những phản ứng đó thì chắc chắn chúng tôi còn bị “hành hạ” thêm nhiều từ những cán bộ rất có tầm rất hạn chế trong Trung đoàn 826.

Nhóm chúng tôi dành phần lớn của 80 ngày trong doanh trại cho những hoạt động riêng theo kiểu bản chất thuần phác có nguồn gốc của xuất thân và nghề nghiệp. Tôi cũng sẽ viết trong những bài tiếp theo để cùng nhau ôn lại. Tôi nghĩ những kỉ niệm ấy cũng rất hay, mang ý “tếu táo” là chính. Giờ xét lại thấy chúng tôi đã có một lối chơi, một cách sống giàu tình cảm mang tính nhân văn, hài hước hợp lí, đủ một chút nghịch ngợm sót lại của thời “trẻ trâu”, đủ một cách thoát được những “cực đoan bầy đàn” lúc bấy giờ và cảm thức cuộc sống không thể thiếu môi trường tự nhiên của chúng tôi để cho đến nay không ai nuối tiếc ân hận gì về những ngày đầu quân ngũ.

 

[1] Khi đó từ ngày14-12-1978 thị xã Sơn Tây, Hà Đông và các huyện Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức được sáp nhập vào Hà Nội.

[2] Bài hát Ông trăng xuống chơi của Phạm Duy được trẻ em hát kiểu đồng dao nghe rất vui.

[3] Nguyễn Quang Lập là nhà văn có Blog “Quê choa” rất nổi tiếng tự xưng “Bọ Lập”. Blog này hình như bị đóng sau khi ông bị bắt năm 2014.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét