Chủ Nhật, tháng 7 28, 2024

Tình người xa lạ 2 (chuyện chưa từng kể với bất kì ai)

Hồi ấy, tôi 9 tuổi, là mùa hè năm 1966, sắp bước vào lớp 2 (trong chương trình 10 năm phổ thông[1]). Tình tôi nhút nhát, lại gầy-đen-còi cọc, yếu hơn các bạn cùng tuổi nên nhìn bé như 5-6 tuổi. Tôi hay mặc cảm với mình và rất sợ gặp người lạ, chỉ thích chơi một mình quanh nhà.

Hôm ấy trưa hè nắng nóng, tôi mang cái gáo dừa ra cầu ao cạnh nhà tắm. Cả làng như đang ngủ say, rất vắng lặng. Tắm chỉ là ngồi múc nước dội lên người cho mát rồi ngắm con chim trên cây, con cá dưới ao bèo chứ không có kì cọ gì. Tôi đang ngơ ngẩn nhìn mấy con bọ nhảy trên mặt nước, bên dưới có mấy con cá tí tẹo lấp lánh màu rất đẹp bơi qua lại thì bỗng giật mình nghe tiếng bước chân người. Tôi vội thu dọn để chạy về nhà. Khi đứng lên và… không kịp nữa rồi: một chị học sinh K8[2] đang trọ trong làng đã đứng trước mặt tôi. Thấy tôi vội vã bỏ đi thì chị nhẹ nhàng bảo tôi dừng lại và bảo tôi ngồi xuống cầu ao để chị tắm cho tôi.

Chị tắm rất kĩ, kì cọ các ghét bẩn trên người đen gầy của tôi, vừa tắm vừa nói chuyện về phải giữ gìn vệ sinh cơ thể, tự chăm lo cơ thể để khỏe mạnh, từ đó biết tự lập làm nhiều việc của bản thân. Tôi rất xấu hổ không dám nhìn và nói chuyện với chị, chỉ để cho chị kì cọ và lắng nghe. Khoảng mươi phút, chị bảo xong rồi, mặc áo quần vào rồi về. Chị thì đi tiếp lối mòn ngõ nhỏ về phía giữa làng.

Tôi không biết chị ấy là ai, đang trọ ở nhà nào trong làng, chỉ thoáng thấy khoảng độ tuổi 14-15, da trắng, bàn tay rất mềm mại, kì cọ cho tôi và nói chuyện nhỏ nhẹ giọng Quảng Bình, hình như có mái tóc dài khi tóc chạm vào lưng tôi. Chị đến và đi rất nhanh nhưng đã kịp tắm cho tôi sạch sẽ. Cảm giác vừa lạ vừa sợ là những gì tôi còn nhớ được rõ nhất lúc ấy về chị.

Tại sao chị ấy lại dành sự chăm sóc chu đáo cho một đứa trẻ như tôi trong làng này. Nhà tôi khi đó đang có các nữ sinh sư phạm ở trọ nên không được phân công nhận học sinh K8, nhưng vì sao chị lại không ngại ngần để tắm cho tôi. Rõ ràng chúng tôi không hề quen nhau. Hay vì chị ấy thấy tôi bẩn quá, hay vì chị ấy siêng năng quen làm việc giúp người, hay vì chị ấy đang nghĩ tôi như đứa em trai của chị cũng đang được đưa ra sơ tán theo K8 ở một làng nào đó?

Ít lâu sau, lớp K8 của chị ở làng tôi được chuyển lên các huyện vùng núi an toàn hơn (làng tôi gần vùng bom đạn của máy bay Mỹ) nên tôi không bao giờ được biết gì về chị ấy nữa. Cho đến nay mỗi khi tắm tôi vẫn thường nhớ cảm giác bàn tay mềm mại của một cô gái đang tuổi dậy thì kì cọ trên vai, trên lưng mình. Một cảm giác đầy lòng thành kính và biết ơn trong tình người xa lạ.



[1] Trong chương trình 10 năm học phổ thông, hồi ấy chúng tôi đủ 7 tuổi vào lớp Vỡ lòng, 8 tuổi lớp 1,… và hết 17 tuổi thì xong lớp 10.

[2] Chiến dịch K8 hay Kế hoạch 8 là một chiến dịch trong cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài từ tháng 8 năm 1966 đến cuối năm 1967. Đây là cuộc trường chinh sơ tán bằng đường bộ hơn 30.000 học sinh từ 5 đến 15 tuổi ở Quảng Bình, Quảng Trị (các vùng Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ) ra sinh sống và học tập ở các tỉnh phía Bắc là Nghệ An, Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Hà, Thái Bình. Chiến dịch này do Bác Hồ chủ trương nhằm di chuyển những người không thể cầm súng ra khỏi vùng hủy diệt của chiến tranh.

 

Chủ Nhật, tháng 7 14, 2024

Phân hệ phái, chi, tiểu chi trong Dòng họ trong nông thôn

1. Hệ thống phân cấp theo sinh kỳ phát tộc

Theo thời gian, Dòng họ cứ nối dài sự tăng trưởng về số hộ, khẩu và mở rộng nơi cư trú. Để theo dõi được sự liên kết và phát triển Dòng họ cần tổ chức hệ thống phân chia thành các cấp. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên người Việt dựa trên quan niệm "thủy hữu nguyên, mộc hữu bản" nghĩa là nước có nguồn, cây có gốc để chia hệ thống thành 2 cấp chính là phái và chi. Phái (nhánh sông): nước chảy từ nguồn chia thành nhiều nhánh sông nhỏ. Chi (cành cây): mọc từ gốc, chia thành nhiều cành con.

Việc liên kết Dòng họ cứ phát triển mãi sẽ phải mở rộng hệ thống phân cấp. Những Dòng họ có phả tới 20 - 30 đời có thể dùng đến Phái - Tiểu phái - Chi - Tiểu chi, nhưng nếu đến 50-60 đời thì việc phân cấp rất phức tạp vì phải chia thêm các cấp nhỏ hơn. Sự quá phức tạp đó bắt buộc phải hình thành sinh kỳ mới tức là đến mức chi tiết nào đó thì hệ thống phân cấp cũ sẽ phải tạo thành hệ thống mới. Hệ thống mới sẽ lấy cấp phân chia cuối của sinh kỳ cũ làm gốc (đời khởi tổ) cho sinh kỳ mới.

Theo Phạm Thúc Hồng[1], một sinh kỳ phát tộc chia theo 12 cấp cho mỗi sinh kỳ như sau: 1/ Phái → 2/ Phân Phái  → 3/ Tiểu Phái → 4/ Chi → 5/ Phân Chi → 6/ Tiểu Chi → 7/ Tiết → 8/ Phân Tiết → 9/ Tiểu Tiết → 10/ Diệp → 11/ Phân Diệp → 12/ Tiểu Diệp. Hệ thống tiếp theo lấy cấp Tiểu Diệp để thành Thủy Tổ cho sinh kỳ 2...

Như vậy, theo lý thuyết, một sinh kỳ có 12 cấp, nếu phát triển Dòng họ thuận lợi thì khoảng 60 đời, tức khoảng 1200 – 1500 năm sẽ hết sinh kỳ thứ nhất[2]. Trong thực tế khó có Dòng họ nào tạo ra được phả liên quan 50-60 đời. Ngay cả ngọc phả, thế phả, các triều đại cũng chỉ kéo dài khoảng 300 – 400 năm. Ở Việt Nam, các Dòng họ có phả lâu đời nhất cũng chỉ khoảng 50 đời và thường rất hiếm. Các phả lớn ở Việt Nam đều có hiện tượng phân hệ sau một số đời (thường sau 4-5 đời). Phái, chi hay ngành (nhành) là tên gọi của các cấp không nhất thiết thống nhất mà theo tập tục địa phương. Chẳng hạn, họ Vũ[3] sau 5 đời thì có ngũ chi, rồi bát phái, họ Phạm[4] ở Đan Loan đến Đời Thứ 11 có 3 lần phân chi...

2. Sự hình thành đơn vị thờ cúng

Một đơn vị thờ cúng được hiểu là một tập hợp của những người cùng Dòng họ (cùng huyết thống) trong một địa phương do người dòng trưởng giữ vai Tộc trưởng tổ chức, cùng thống nhất các quy định thờ cúng và sinh hoạt trong Dòng họ. Các quy định được thống nhất trên cơ sở phong tục, truyền thống về phân phái, phân chi, tế lễ, Từ đường, mồ mả...

Tổ chức thờ cúng theo phái hoặc chi là những quy ước riêng của từng Dòng họ khi có những điều kiện nhất định, nhất là trường hợp có một số gia đình tách khỏi nơi cư trú cũ của Dòng họ để lập nghiệp ở địa phương mới. Các phái, chi khi quần tụ và phát triển mạnh ở nơi cư trú mới sẽ trở thành đơn vị tín ngưỡng độc lập, tổ chức thờ cúng tổ tiên theo truyền thống, cải biên truyền thống bằng những quy định mới phù hợp hơn với phong tục nơi cư trú mới về từ đường, mồ mả, gia quy... Tuy nhiên, khi Dòng họ cư trú ổn định và lâu đời trong một địa phương thường quy tụ tại Từ đường của người giữ vai Tộc trưởng.

Việc theo dõi và hình thành tộc phả, gia phả sẽ ngày càng phức tạp khi các Dòng họ có nhiều đời, nhiều hộ và nhiều nơi cư trú. Các quy ước trong phả được hình thành và phân chia hệ thống tùy theo điều kiện của từng Dòng họ. Không có sự thống nhất nào có thể hợp lý và tạo được mẫu mực cho mọi Dòng họ. Sự sáng tạo và những điều kiện thể hiện của mỗi Dòng họ trở thành sự đa dạng phong phú của văn hóa, được coi là những khảo cứu, tra cứu có tính lịch sử của dân tộc, các địa phương... Các khác biệt đó cho đến nay thấy ở sự phân hệ (tên gọi các cấp, quy định các đời) không thống nhất ở các phả.

3. Khảo cứu cội nguồn, khát vọng hợp phả

Do những biến cố trong lịch sử (chiến tranh, loạn lạc, thiên tai, cư trú...) việc nối tiếp của một Dòng họ trong quá khứ không được ghi chép liên tục và đầy đủ. Chính vì vậy kết nối phả đời sau với các đời trước, việc sánh chiếu các phả ở các địa phương khác nhau là chuyện phức tạp muôn thuở và luôn có sự băn khoăn, nghi hoặc của hàng trăm giả thuyết khi bàn luận hợp phả. Đó là chưa kể những biến cố phải "mai danh ẩn tích, đổi tộc thay tên" trong nhiều trường hợp vì sự sinh tồn. Hợp phả luôn là những giả thuyết gắn với truyền ngôn hơn là các chứng cứ trong thực tế. Khi cư trú tại một địa phương, các dòng tộc phát triển mạnh lên sẽ gặp bế tắc về sinh kế, do đó di cư tìm nguồn sống mới tạo ra sự phát triển các phái, các chi của Dòng họ tại nơi cư trú mới. Điều kiện sinh kế mới và sự xa cách với nơi cư trú cũ lâu ngày làm cho việc hợp phả trở nên khó khăn. Sau nhiều trăm năm sự liên lạc có thể không còn nữa làm mất đi sự liên kết Dòng họ. Đó cũng là sự phát triển tất yếu của xã hội và lịch sử. Do vậy, dù có cố gắng đến mấy và dù công nghệ phát triển đến đâu chăng nữa thì mỗi người, mỗi gia đình, mỗi Dòng họ đều có cội nguồn, nhưng sự theo dõi và liên kết chỉ có hạn. Lịch sử dân tộc Việt Nam đã có cội nguồn các vua Hùng với truyền thuyết "100 trứng" tượng trưng cho mọi người trong nước đều cùng một gốc, đều sinh trong một bọc nên gọi nhau bằng đồng bào (cùng bọc).

Khảo cứu cội nguồn là khát vọng chính đáng của mỗi Dòng họ. Từ những giả thuyết, những truyền ngôn, những văn tự lưu giữ... mà nhiều Dòng họ đã lần tìm ra cội nguồn phát tích. Tác dụng to lớn của những khảo cứu này là hiểu biết về tổ tiên, mở mang quan hệ Dòng họ, nâng cao niềm tự hào về Dòng họ, quê hương, đất nước. Mặc dù chứng tích có thể không nhiều nhưng sự bao dung, đồng cảm, chấp nhận thông tin cội nguồn luôn là những tín hiệu tích cực trong khảo cứu tổ tiên trên tinh thần "uống nước nhớ nguồn" của mỗi người con trong Dòng họ. 



[1] Nguồn: Phạm Thúc Hồng: Gia phả chữ Hán. Truy cập ngày 15/6/2021 tại  https://hophamvietnam.org/gia-pha-chu-han-va-gia-pha-thoi-nay

[2] Nếu một Dòng họ phát triển nhanh liên tục thì khoảng 3-5 đời sẽ cần một lần phân cấp. Trường hợp các nhánh không phát triển nhanh được là do nhánh có ít con trai hoặc có nhiều người vô tự (không có người nối dõi). Khi đó có thể phải 5-7 đời mới có một lần phân cấp. Mỗi sinh kỳ có 12 cấp tức là cần 36-60 đời, thậm chí tới 72 đời cho những dòng chậm phát triển (tức 12 cấp × 3 đời/cấp = 36 đời, 12 cấp × 5 đời/cấp = 60 đời, 12 cấp × 7 đời/cấp = 72 đời). Mỗi đời thông thường trung bình 20-25 năm. Vậy 36 đời tương đương 720-900 năm; 60 đời tương đương 1200-1500 năm và 72 đời tương đương 1440-1800 năm. 

[3] Theo tài liệu "Vũ tộc thế hệ sự tích" của Đại học Quốc gia Hà Nội, NXB Thế giới, 2004: Phả Dòng họ Vũ Mộ Trạch  ghi được tới 35-40 đời, gồm ngũ chi, bát phái.

[4] Theo Phạm Đình Hổ: Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả. Trần Thị Kim Anh giới thiệu và chuyển ngữ. NXB Văn học, 2019 (trang 26).

Chuyện anh Cứng

 

Chúng tôi có 4 người đi trên chiếc xe Uaz cũ biển quân sự sang công tác tại Phnom penh. Thủ trưởng Trần Kỳ Vân (hàm Trung tá) phụ trách chuyến đi, anh Quang (Thượng úy) đóng quân bên Campuchia về đưa chúng tôi đi, tôi (Trung úy) và anh lái xe tên Cứng (Chuẩn úy). Xe đi từ Quân khu 9, nghỉ đêm ở Sài Gòn, sang qua cửa khẩu Xa Mát (Tây Ninh) tiếp giáp tỉnh Svay Riêng, Campuchia.

Khoảng giữa chiều xe đi qua một đoạn đường vắng 2 bên toàn rừng cây thưa, không thấy điểm dân cư, đường không người và xe cộ qua lại. Bỗng gặp chiếc xe tải biển quân sự Việt Nam đi về hướng Phnom Penh đỗ cạnh đường. Đến gần, anh Cứng cho xe tạt vào và xuống xe để gặp anh lái xe tải người Việt Nam. Cả đoàn dừng nghỉ lại ven đường.

Một lúc sau, anh Cứng quay lại cho biết chiếc xe tải bị ‘pan’ cần kiểm tra xem hỏng cái gì và có khắc phục được không. Anh nói anh cần giúp người lái xe vì loại GMC này trước đây anh cũng đã từng lái. Anh Quang kéo Cứng ra nói nhỏ nhưng tôi nghe được: ở vùng này không an toàn, có nhiều toán phỉ phục kích, cố gắng để chúng ta qua sớm kẻo đêm đến rất nguy hiểm. Sau đó anh dặn mọi người cảnh giác.

Anh Cứng quay lại giúp người lái xe. Tôi chẳng hiểu công việc thế nào chỉ thấy 2 người hí hoáy chăm chú… Khoảng hơn 1 giờ sau anh Cứng quay lại nói với Thủ trưởng Kỳ Vân: anh cần lấy xe quay ngược lại khu vực chợ Ponhea Kraek mà chúng tôi đã đi qua (chừng 20km) để tìm mua một loại phụ tùng gì đó thay thế và nhờ anh Quang đi cùng (vì anh ấy giỏi tiếng Khơ-me). Lúc này trời đã gần tối. Thủ trưởng Kỳ Vân đồng ý và dặn cố về sớm. Tôi ở lại cùng Thủ trưởng Kỳ Vân, ông bảo tôi cảnh giác và cùng tản ra ngồi trong bóng cây gần anh lái xe tải. Trời tối hẳn, anh lái xe cũng đành ngồi nghỉ chờ, anh nói xe anh chuyển thiết bị cho các đơn vị Việt Nam ở Campuchia, anh đã đi nhiều chuyến nhưng lần này không may hỏng xe giữa đường…

Khoảng hơn 2 giờ sau, chúng tôi thấy có ánh đèn xe đến gần và anh Cứng đã về. Anh Quang báo cáo với Thủ trưởng Kỳ Vân rằng nếu anh không đi cùng anh Cứng thì không thể mua được vì nhờ biết tiếng Khơ-me nên anh đã tìm được người bán phụ tùng ở xa khu chợ cả chục km. Anh Cứng cùng anh lái xe thay thế phụ tùng và thử máy, xe đã nổ lại được máy, may quá.

Sau đó cả 2 cùng lái hướng về phía Phnom Penh. Xe anh Cứng có thể đi nhanh nhưng không dám vượt mà cố bám theo xe tải đề phòng sự cố hoặc nguy hiểm gì. Sau khoảng hơn 1 giờ nữa, chúng tôi gặp 1 đơn vị bộ đội Việt Nam đóng quân ven đường, anh lái xe đã dừng xin nghỉ lại mai đi tiếp. Từ khi đó anh Cứng phóng nhanh về phía Phnom Penh. Đến muộn, mọi người vẫn chờ cơm vì biết có thể xảy ra sự cố nên khi gặp chúng tôi mọi người đều rất phấn khởi.

Tôi cứ nghĩ mãi nếu hôm đó anh lái xe không gặp chúng tôi, hoặc nếu xe chúng tôi không sẵn sàng hỗ trợ thì  chuyện gì sẽ xảy ra. Chuyện chiến trường, chuyện đồng đội giúp nhau vốn không phải xa lạ. Tôi khi ấy mới đi Campuchia lần đầu nên cứ nhớ mãi về tình người, tình đồng đội giữa những người bộ đội Việt Nam không quen biết ở chiến trường. Về sau tôi được nghe anh Cứng kể rằng thực ra khi đi mua phụ tùng về thì cũng khá nhanh chóng chứ không như anh Quang báo cáo Thủ trưởng Kỳ Vân. Nhưng về muộn vì trên đường các anh đã gặp mấy người dân Campuchia đang khiêng một người ốm đi tìm thấy thuốc. Các anh đã đưa được họ đến nơi họ cần. Việc đó làm mất cả giờ đồng hồ nên đành nói cớ chậm để Thủ trưởng Kỳ Vân chấp nhận.

Thứ Tư, tháng 7 10, 2024

‘Cái bọn ngắn ngày’

Trong chuyến đi du lịch năm ấy đoàn chúng tôi thăm 5 nước Tây Âu. Ở Paris tình cờ gặp một đoàn khác (đi 3 nước) cùng xuất phát từ Hà Nội. Tour 2 đoàn khác nhau chỉ là thời gian ở thêm 2 nước. Thế là mấy ngày sau, chúng tôi đều gặp nhau ở các điểm di sản nổi tiếng trên đường qua các nước.

Ngày thứ 3 gặp nhau, chúng tôi nghe anh bạn (quen từ trước) đi ở đoàn kia phàn nàn rằng đoàn của phức tạp quá, mọi người không chấp hành các ý thức thời gian, lại thường xuyên tranh luận các quan điểm, nhận thức, đánh giá các di sản, từ đó gây ra những mâu thuẫn không đáng có giữa những người đi trong đoàn. Luôn cãi vả những chuyện vặt, mất hết cả tâm trí thưởng thức những sản phẩm du lịch tuyệt vời, mất hết niềm vui trong chuyến đi.

Đoàn chúng tôi cũng đông như đoàn các anh ấy, thành phần cũng na ná như nhau: nhiều người già, ít trẻ. Tất nhiên mọi người đi tuor ghép đoàn thì khác nhau về nghề nghiệp, học vấn, nơi sống, quan niệm, tính cách… Nhưng đi du lịch theo tuor thì biết làm sao, miễn là ta trả tiền mua dịch vụ để hưởng CÁI THÚ ĐI LẠI của ta. Đi là trải nghiệm và khám phá, tức là bỏ tiền ra để mua cái cảm giác mới (ngắm thấy, sờ thấy, nếm thấy, nghe thấy…) rồi từ đó phát hiện thêm những điều chưa biết hay có thêm cảm xúc để tìm tòi, để biết thêm sự khác biệt của tự nhiên và của loài người còn lưu dấu trên địa cầu này. Mặt khác, các điểm di sản về cơ bản ở những thời điểm không bị quá sức chứa (Tourism Carrying Capacity) thì chúng không bị hao mòn, nghĩa là anh ngắm rồi thì tôi cũng vẫn ngắm được (cái ngắm nhìn của anh không làm mất cái ngắm nhìn của tôi) và di sản thì không bị mòn đi hay suy giảm giá trị của nó vì sự ngắm nghía của bọn khách du lịch.

Đoàn chúng tôi thống nhất từ đầu chuyến đi là chúng ta bỏ tiền để mua sự hài lòng nên nhất thiết không làm cho nhau mất vui. Tại sao phải cãi cọ nhau vì những chuyện không đâu để rồi làm phiền khổ nhau và ảnh hưởng đến nhau trong tâm lí hưởng thụ di sản? Liên quan gì mà phát sinh các quan điểm, tính cách, ý thức… để xung đột với nhau trong cùng chuyến đi hiếm hoi của mỗi người?

Anh bạn tôi nhìn mấy người trong đoàn kia nhăn nhó, khó chịu đó, nói nhỏ một câu với tôi: ôi cái bọn ngắn ngày!!!

Thứ Hai, tháng 7 08, 2024

Cô bé quét nhà không sạch

Khi xưa đến thăm nhà bạn, trước thềm nhà tôi nghe thấy bạn đang nhắc nhẹ con gái là quét nhà chưa sạch, phải quét lại đi, việc này dễ bây giờ không làm được thì sau làm gì để kiếm sống? Tôi bước vào, bạn tôi bảo: Oa, cậu nghe thấy rồi à, mình nhắc để lần sau cháu làm cẩn thận.

Sau này gặp cô bé quét nhà ngày ấy, cô nhắc lại chuyện đó với tôi. Tôi thầm nghĩ nhà kinh doanh thành đạt hôm nay (tạm gọi thế) với chuyện quét nhà không sạch ngày xưa có liên quan gì với nhau?

Một lần tôi thử hóa thân vào cô bé quét nhà: cô cầm cái chổi bé quét phần nền nhà không quá 5m2. Tôi bỗng thấy cô bé ấy đang đứng trên chiếc thuyền, tay cầm cây chèo nhỏ giữa một hồ nước trong xanh, còn đám bụi dưới nền nhà là vô số những bọt nước li ti nổi lên trên mặt hồ. Cô khua cây chèo đến đâu thì bọt nổi lên đến đấy, bọt cũ vỡ ra thì bọt mới sôi lên. Cô như đang lướt trên mặt hồ với muôn vàn bọt nước lung linh, cái nào cũng trong suốt, lấp lánh ánh sáng đủ màu, thấp thoáng bóng hình mây nước… Trước khi vỡ ra, nó càng rực rỡ hơn. Cây chèo nhỏ lia qua lia lại, các bọt nước tan ra, nổi lên loang loáng quanh cô. Cô như nàng tiên trên mặt hồ hồn nhiên vui vẻ với vô số bọt nước li ti lấp loáng, gạt đi một cái, cái mới lại lên, phía trước, phía sau… Ôi, những bọt nước lung linh thế làm sao mà dồn chúng lại thành một đống được.

Một lần khác, hóa thân vào cô bé khi quét nhà lại thấy cô đang cầm ‘đũa phép’ giữa đám sao trời. Những ngôi sao lấp lánh quanh cô, cô vung ‘đũa phép’ lên, chúng càng lấp lánh và thế là chiếc ‘đũa phép’ vung lên phía trước, phía sau, đám sao càng rực rỡ. Cái nào cũng đẹp, cũng lung linh huyền ảo, không sao dồn chúng về một phía được.

Tôi chưa có dịp hỏi lại sau này khi làm kinh doanh, các đơn hàng, các vận hành giao dịch trong đầu nhà kinh doanh nay có giống những vì sao hay những bọt nước lung linh không? Sự vận động của nhu cầu trong thương trường mà cây bút trong tay cô có trở thành cái ‘đũa phép’ múa lên giữa các giá trị của hàng hóa và dịch vụ để chúng đến được tận tay những người cần hàng hóa và dịch vụ đó có đẹp như những bọt nước lung linh hay như những ngôi sao lấp lánh cô thấy năm nào?

10/4/2020 – viết lại 7/7/2024

Chủ Nhật, tháng 7 07, 2024

Tình người xa lạ 1

Năm 1975, tôi đi thi đại học ở 1 điểm trường tại thị xã Thanh Hóa (nay không còn nhớ trường nào). Từ nhà đến điểm thi xa hơn chục km nên tôi đi bộ từ sáng sớm. Khi đến điểm tập trung làm các thủ tục, tôi được bộ phận tiếp đón hướng dẫn phòng thi và giúp các thí sinh có nhu cầu ở trọ. Chắc chắn phải ngủ lại 2 đêm (hôm trước đến nhận phòng thi và nghe hướng dẫn thủ tục, ngày hôm sau thi 2 môn, còn ngày thứ 3 thi môn cuối). Tôi không nhớ lắm về các chi tiết cuộc thi, nhưng lại không quên được chuyện đi trọ thi lần ấy.

Một bác phụ nữ cao gầy đưa tôi đến một gia đình có căn nhà nhỏ và nói nhà này chỉ nhận được 1 người. Hồi ấy sau chiến tranh nên thành phố bị bom phá hết, nhà ai cũng tuềnh toàng, đơn sơ. Chủ nhà là anh thanh niên trẻ (có lẽ không bằng tuổi tôi, tôi không biết tên) cởi trần, dáng nhỏ con, khuôn mặt hiền lành, chất phác. Anh chỉ cho tôi nơi nằm là cái gường nhỏ ở góc phòng chính, còn anh ngủ trong buồng (phòng trong). Đại loại rất đơn giản vì chúng tôi đi thi đã mang theo màn và vài vật dụng cần thiết cùng gạo và vài thực phẩm để tự nấu ăn. Nói chung, tôi cũng không quá lo về chuyện thi vì khi đó không mấy người đỗ đại học, chỉ mong cho chút điểm để có thể được đi học trung cấp hay sơ cấp gì đó, hòng tìm cách thoát ly khỏi quê nghèo kiếm cơm là được.

Buổi chiều hôm đó, tôi tự nấu ăn với gói muối vừng và rau mẹ tôi đã chuẩn bị. Anh cho tôi mượn cái nồi nhỏ nấu cơm. Củi thì anh có một chút trong bếp nên bảo tôi cứ việc dùng.

Sáng đi thi, không nấu ăn gì cả vì khi đó mọi người đều không ăn sáng. Đi thi không lo, không sợ, thi là thi thôi. Anh chủ nhà dậy trước rồi, khi tôi chuẩn bị đi thì anh nói: cứ để gạo đó tôi nấu hộ cho, khi thi về kịp ăn để chiều còn thi tiếp may ra nghỉ được chút thì tốt. Tôi vui vẻ nhờ anh.

Trưa về đã thấy anh chuẩn bị một cái mâm nhỏ cạnh giường, anh bảo tôi ăn để còn tranh thủ nghỉ. Tôi thấy mâm có đĩa rau luộc cùng bát nước chấm và mấy quả cà muối. Cơm anh nấu khéo, sạch sẽ. Tôi lặng lẽ cám ơn anh và ăn. Anh chỉ hỏi có làm được nhiều không và để tôi ngồi ăn một mình.

Chiều anh đợi tôi về và đưa gạo để anh thổi cơm chung, ăn chung. Anh nấu, tôi rửa bát. Trong bữa cơm tối, anh ăn nhỏ nhẹ, ít nói chuyện. Tôi chỉ nhớ anh nói là thanh niên nông thôn mà có chí học hành đi thi đại học là khá lắm, sau này có cơ hội nghề nghiệp đỡ vất vả, điều đó nhiều người ở thị xã có điều kiện hơn mà cũng không làm được.

Sáng hôm sau tôi dọn đồ và chào tạm biệt anh vì thi xong là tôi sẽ đi bộ về nhà ăn cơm cùng gia đình nên không quay lại chào anh nữa. Anh chào lại nhẹ nhàng và chúc tôi may mắn.

Tôi cứ nhớ mãi sự tử tế đầy tình người xa lạ của anh dành cho tôi. Việc anh chủ động giúp tôi nấu ăn dường như có sự ngưỡng mộ nào đó. Anh đã ngưỡng mộ chân thành sự học hành và sự cố gắng của người khác mà bản thân không hề có sự đố kị hay so sánh gì. Rất tiếc sau này tôi không có cơ hội gặp lại anh nhưng những gì anh dành cho tôi thật vô cùng quý giá. Sự giản dị, chân thành của anh là tình cảm biết ơn tôi mang theo suốt đời.

Ghi chép 2012, viết lại 7/7/2024

Thứ Bảy, tháng 7 06, 2024

Tình cha


Lần ấy tôi cùng nhóm đi công tác tại Australia. Một hôm có người quen mời cả nhóm đến ăn tối. Khi đến mới biết họ ở cùng nhà với một gia đình khác trong căn hộ thuê chung 2 phòng nên cả 2 gia đình cùng ăn tối chung với chúng tôi. Hai gia đình đều đến từ Hà Nội, đều đang có người còn đi học nên thuê nhà ở chung là hợp lí và họ có vẻ thân nhau, hợp nhau. Đại loại thế.

Bữa tối gia đình giản dị và vui, chủ nhà 2 gia đình đều hiếu khách nên tuy không cao sang lắm – toàn những món tự chế, kể cả rượu – nhưng rất thân tình. Hôm ấy, có một tình tiết tôi không thể quên.

Gia đình người ở chung có 3 người: vợ là người sang học, anh chồng bỏ việc ở nhà (nghe nói trước làm ở ngân hàng nào đó) đưa con gái khoảng 5-6 tuổi sang cùng. Qua Australia, vợ đi học, chồng không có việc lại có con nhỏ nên phải đi tìm việc ở ngoài (tôi đoán là đi dọn rửa cho một nhà hàng nào đó). Chuyện đó cũng bình thường mà.

Khi chúng tôi đến được một lúc thì anh chồng người ở chung nhà mới đi làm về. Mọi người có ý chờ anh về mới ăn tối. Anh vui vẻ, trẻ trung, ăn mặc chỉnh tề, sáng sủa chào hỏi mọi người và cùng ngồi ăn. Bỗng đứa con gái của anh kêu to: “Ba ơi, ba hôi lắm, ba đi tắm đi rồi hẵng ăn, người ba toàn mùi rửa bát”…

Mọi người lặng đi một chút, sau đó nói chuyện để quên chuyện đó, nhưng con bé vẫn không tha: “Ba hôi lắm, toàn mùi đồ ăn, bát đĩa”… Mẹ cháu khuyên nhẹ cháu nên yên lặng để mọi người ăn uống.

Tôi bỗng thấy một cảm giác khó tả: tình cảm gia đình phải theo nhau đoàn tụ để phát triển tương lai ở hoàn cảnh nào cũng có những éo le. Trường hợp này cô vợ trẻ đẹp đi học xa mấy năm, anh ở nhà một mình nuôi con. Đoàn tụ tức là anh phải bỏ nghề và có thể còn hi vọng định cư sau này vì tương lai con cái. Cái khó là phải làm gì để vào được cộng đồng người Australia vì thu nhập, trải nghiệm tiếng Anh…

Việc đó sau này thế nào tôi không rõ nhưng đứa trẻ ngây thơ vô tư ấy thản nhiên nói những điều chắc không ông bố bà mẹ nào không suy nghĩ đến tình cảnh của mình, nghĩ về nỗi lo và tình thương con cái. Phải làm sao để sau này con hiểu hết được tình cha?

Nhân Ngày của Cha[1] năm nay (16/6/2024) tôi bỗng nhớ câu chuyện này và nghĩ nếu đặt mình vào địa vị người cha đó thì mình sẽ phải làm sao? Thật khó quá đi chứ, cách nào để cứu cánh hợp lí gia đình của người cha này?



[1] Ngày của cha (Father’s Day) là ngày lễ tôn vinh những người làm cha. Ngày của Cha phổ biến nhất được tổ chức vào chủ nhật thứ 3 của tháng 6. Trong năm 2024, ngày của Cha sẽ rơi vào chủ nhật, ngày 16/06.


Chuyện lũ mèo nhà tôi (nhiều kì)

Sĩ diện mèo

Hai con mèo Vàng và Mướp chơi thân và rất "sĩ diện".

Một buổi tối nọ, khi ông Tỏn đang làm việc, 2 mèo ngồi bên buồn tênh nhìn nhau. Cả 2 đứa trông thật ể oải và lười biếng... Bên ngoài trời sắp mưa...

Bỗng nghe "chẹt, chẹt..." bên cửa sổ, con Vàng đảo mắt rung râu vụt lao ra và thoáng một cái quay về với mồm ngậm chặt một con châu chấu to bằng ngón tay màu vàng rực, vàng như màu lông của nó. Nó hí hửng đi đi lại lại, có vẻ khoái chí lắm, cố để khoe với mèo Mướp về chiến công của mình...

Mèo Mướp trố mắt nhìn và ban đầu lấy làm phục lắm, nhưng tỏ ra việc đó không quan trọng...

Bỗng "chít, chít..." ngoài cửa sổ. Mèo Mướp cũng đảo mắt rung râu quất đuôi phóng đi nhanh như chớp.

Chỉ một thoáng sau quay về, còn nhanh hơn cả chuyến đi của Vàng. Mướp tỏ ra khoái chí lắm cứ đi đi lại lại nhưng Vàng nhìn theo thì thấy Mướp chẳng có gì mang về...

Con Vàng cho là Mướp chẳng đem được chiến công gì về nên không thèm để ý. Sau mấy bận đi đi lại lại mà Vàng không thèm để ý, Mướp ta mới vừa đi vừa nhe răng và nhếch mép ra, để lộ một con "bọ nhảy" to bằng... hạt mướp màu đen như chính màu lông của Mướp. Thì ra nó đã bắt được con bọ nhảy kêu chít chít bên cửa sổ và khoe với Vàng, nhưng con bọ quá nhỏ nên nó đành phải nhe răng ra cho con Vàng thấy. Và cứ thế nó đi đi lại lại mấy chục vòng trước khi nhè con bọ ra để nghịch.

Để so sánh với chiến công của Vàng, Mướp đã làm được việc tương xứng: con bọ màu đen như màu lông của nó, và bé tẹo.... như thân hình của nó. Đối lại, con Vàng đã bắt được con bọ màu vàng to, xứng với màu và kích cỡ của thân thể của nó.

Quan sát lũ mèo chơi và bắt mồi mới hay chúng là loài sĩ diện ngang với loài... người!

Thứ Sáu, tháng 7 05, 2024

Ăn nem thổi kèn lá chuối

Món nem Thanh Hóa là đặc sản quê hương, quà quê cho rất nhiều người khoái khẩu món nem này. Món này dễ ăn, có chất gây nghiện vì ngon, nhưng một thời bị gán cho nhiều chuyện xấu như thói gian của người Thanh Hóa (bọc rất nhiều lá chuối cho cái nem bé tẹo bên trong) hay chuyện gói nem bằng thịt lợnn chết, bằng thịt chuột... Tất cả điều đó cho đến nay không còn ai nhắc nữa bởi nó thành đặc sản nổi tiếng và những người kém hiểu biết mới nói thế. Nem ngon thì phải làm bằng thịt nạc lợn tươi, sạch thì mới tạo được men chua và lá chuối càng quấn nhiều lớp và dày thì nem mới được bảo quản lên men đúng cách, lại giữ được lạnh để được lâu và gửi đi được xa...

Đó là chuyện của nem, sẽ có dịp nói sau. Ở đây chỉ là chuyện bàn ăn...

Bữa ăn có nem thường được nếm trước khi ăn và sau bữa ăn. Nhìn đống lá chuối tươi bọc nem sách đầy bàn, ông Tỏn nghĩ ngay đến tuổi trẻ trâu lấy lá chuối làm kèn thổi khi xưa. Ông làm thử, 2 đứa hau háu xem và bắt chước, thế là kèn ông bố thổi thì kêu, còn kèn của bé làm không kêu. Bà mẹ thấy thế cũng làm, cả cụ Tôn cũng làm. Thì ra họ đều nhớ những thời trẻ trâu...

Kèn của ông Bố kêu tú... ụ... Kèn của bà Tủng kêu Tí tí tí tí... Kèn cụ Tôn kêu Tét tét... Ông Tỏn nói kèn bố kêu kiểu tiếng thổi cái tù-và thổi bắt trâu ăn lúa dọa trẻ con của ông quản đồng ruộng hồi xưa. Bà Tủng nói kèn của bọn trẻ bắt chước kèn tổ sâu, còn cụ Tôn thì bảo giống kèn của mấy ông bán kẹo đổi lúa thổi ở ngoài đồng...

Hai đứa bé thì không kêu vì chưa biết thổi vì không biết ngậm và lấy hơi.

Khi bà mẹ và ông bố làm sẵn thì bắt đầu biết thổi, kèn của Tun kêu tu tét, tu tét, kèn của Téng kêu te te tụt...

Bữa ăn nem là những bữa cười vang nhà, con mèo thấy lạ bỏ chạy ra xa, con chó nhơ ngác tưởng hôm đó có đội văn công thổi kèn. Tun bảo kèn con thổi giống tiếng... Téng bảo kèn con giống...

Thế là từ đó các kiểu kèn có thêm nhiều kỹ năng mới ngày càng cao và ăn nem thổi kèn vừa ngon vừa vui vì đầy tiếng cười trên mâm...



 

Chuyện quê hồi ấy: En-giê-hát...

Khi tôi còn bé tí, chưa đi học, đã nghe cha tôi kể chuyện về phong trào bình dân học vụ những năm mới hoà bình (1954-1955). Thanh Hoá khi là vùng tự do những năm 1950-1954 (là căn cứ địa của cuộc kháng chiến chống Pháp 46-54). Sau khi hoà bình, nghe theo lời Bác Hồ về chống giặc dốt, phong trào bình dân học vụ rất phát triển và chỉ trong một thời gian ngắn, số người biết chữ (người lớn) tăng vọt. Đây là phong trào rất thiết thực để nâng cao dân trí và truyền bá chữ quốc ngữ thay cho chữ Nôm còn thịnh hành ở địa phương lúc bấy giờ. Tuy nhiên, do không khai thác ưu thế đó nên nhiều người tái mù trở lại sau rất nhiều năm không dùng chữ sau này.

Cha tôi kể rằng khi đó mọi người đều phải học thì mới được tham gia các hoạt động ở địa phương. Mọi người lấy nong, nia, dần, sàng, bất kỳ công cụ sản xuất gì cũng đều viết chữ lên đó để vừa làm vừa học. Chữ được viết lên tường, lên cổng, lên cả lưng trâu... để vừa đi cày vừa học.

Người ta nghĩ ra nhiều cách học sáng tạo: chẳng hạn ở cổng chợ có bàn kiểm tra, ai đọc được thì vào chợ, ai không đọc được thì phải ở ngoài. Và vì thế cũng phát sinh nhiều chuyện cười...

- Có người nói là ở nhà tôi đọc được hết, nhưng do chữ làng tôi khác nên ở đây không phải chữ làng tôi, tôi không đọc được...

- Ở nhà tôi học thuộc rồi, nhưng đi đường mải lo nghĩ chuyện cày cấy nên quên hết, cho tôi nợ để khi mua, bán xong tôi nhớ lại và đọc giả các ông...

- Ở nhà tôi học xong lại gửi hết cho chồng giữ nên phải đợi chồng tôi trả lại tôi mới đọc được. Sáng nay chồng tôi được gọi đi dân công...

- Tôi viết ở quạt mo, hôm nay đi chợ quên quạt ở nhà nên không đọc được...

... Các cách sáng tạo đó đã làm cho mọi người học quốc ngữ rất nhanh chóng, góp phần tạo tinh thần lạc quan và góp sức thực hiện tốt các chính sách nhà nước.

Có một chuyện tôi không bao giờ quên là cha tôi kể về ông Du, một ông vui tính trong làng. Ông Du học vần nhưng chỉ biết ghép vần en-giê-hát (ngh). Mỗi khi bắt đầu đánh vần chữ gì, ông đều en-giê-hát: ngủ là en-giê-hát u-ngu-hỏi-ngủ; học là en-giê-hát-o-ho-xê-hoc-nặng-học, Du (tên ông) là en-giê-hát-u-du; rượu là en-giê-hát-ư-rư-ơ-rơ-u-rươu-nặng-rượu... 

Tất cả đề bắt đầu bằng en-giê-hát... nên ông còn được dân làng gọi vui là ông En-Giê-Hát.

 

Một thời ‘sính Tây’

Từ hồi sinh viên những năm 1975-1980, thỉnh thoảng chúng tôi thấy những người nước ngoài (nôm na gọi là Tây) đến làm việc tại trường. Họ là người quan trọng (VIP) vì họ đến từ nơi xa (được coi là văn minh, giàu có) nên nhìn từ ăn mặc đến những thứ họ cầm trong tay đều rất được ngưỡng mộ. Sau này có nhiều dịp gặp gỡ, trao đổi với người nước ngoài, tôi có lúc cũng không còn giữ được lòng kính phục như trước vì cũng thấy nhiều khiếm khuyết hạn chế của họ. Mặc dù gặp được nhiều chuyên gia nhưng chúng tôi vẫn thấy muốn tiếp thu nhiều hơn cái tinh hoa học thuật kèm theo sự hoàn thiện của những kĩ năng mà chúng tôi luôn thấy thiếu.

Có một chuyện tôi rất nhớ và cứ suy nghĩ mãi. Hôm đó, khoảng những năm 1996-1997, chúng tôi được cử đi dự một hội nghị kiểu tập huấn ở Bộ Nông nghiệp. Tại hội nghị có 2 người nước ngoài trình bày bằng tiếng Anh và có phiên dịch ra tiếng Việt. Ngoài hành lang hội nghị, ban tổ chức có để mấy cái bàn xếp ngăn nắp những cuốn sách liên quan đến nội dung hội nghị. Tôi nhìn thấy toàn sách quý, khi đó không có bán ở Việt Nam, trong đó có một cuốn nhỏ, đẹp có tên là Policy Analysis Matrix (PAM). Nghe tên đã thấy sướng vì người Tây giỏi ‘ma trận hóa’ nhiều thứ trong cuộc sống, đến cả chính sách mà cũng ‘ma trận’ được.

Khi vào hội nghị, các chủ đề về PAM được một vị khách Tây trình bày hấp dẫn, có nhiều minh họa. Một vài bài khác cũng được trình bày theo kiểu đồ thị định tính rất hấp dẫn. Chúng tôi những năm tiếp cận sách kinh tế tiếng Nga chỉ thấy chữ là chữ, mấy khi thấy có được cái sơ đồ, đồ thị minh họa định tính (figure). Gần trưa đến nghỉ giải lao (tea break) kiểu Tây: có bánh trái, hoa quả, cà phê… mọi người được dịp trao đổi vài câu chuyện về gặp gỡ và rất ít bàn đến chuyên môn (tôi nghĩ đa số chúng tôi khi đó đều còn rất ngu ngơ các chuyện này).

Hết giờ giải lao vào phòng, một vị khách Tây lên nói giọng rất khó chịu phàn nàn gay gắt rằng có nhiều sách trưng bày đã bị mất, ai lấy thì trả lại vì việc này còn phải dùng để tiếp tục đi trình bày một vài nơi khác. Hồi đó ‘chuyện ấy’ cũng thường xảy ra nhưng người Tây thì thấy lạ vì kiểu ‘ăn cắp’ đó không hề có ở bên họ. Nhìn thái độ của vị đó, chúng tôi cảm thấy ngượng và buồn vì mấy chục người ngồi đây ai lấy, ai mượn làm sao biết, vả lại bây giờ nếu có cầm làm sao dám trả lại?

Thiết nghĩ chắc chắn những cuốn sách gọi là quý đó có thể đang có trong túi ai đó rất cần nó (hồi đó ở Việt Nam còn hiếm máy photocopy). Một số cuốn sách quý đó được đến tay người cần biết đâu lại là cơ hội tốt để phát triển nhận thức và ứng dụng. Giá mà ông ấy nghĩ đến chuyện hy vọng cuốn sách đó được ai đó vô tình cầm đi sẽ có nhiều tác dụng trong cuộc sống và chuyện đó được nói ra thay cho bực tức có thể sẽ làm cho buổi hội nghị đó đạt được tinh thần cao hơn và biết đâu còn thôi thúc người lấy sách đó nhận được ý nghĩa về trách nhiệm nhiều hơn chăng?

Sau này tôi đọc được một ý qua cuốn Cái cười của Thánh nhân[1]: liêm khiết không phải là không trộm cắp mà là biết mức nào mình có thể trộm cắp và biết làm cách nào dùng đúng những gì mình đã trộm cắp. Nay nhớ chuyện này tôi biên lại để cùng suy nghĩ đến cách xử lý và hoàn cảnh… như là sự ‘cải biên’ cho những thứ chưa chắc đã xấu xa như quan niệm đạo đức xã hội thường nghĩ.

(2023, viết lại ngày 15-6-2024)

 

 



[1] tác giả Thu Giang Nguyễn Duy Cần

Làng Phúc Ấm - Một số giai thoại liên quan (Bài 3)

1. "Roọc Đồng Pho, Chùa Phúc Ấm"

Đồng Pho là lỵ sở mấy trăm năm của Cửu Chân, Ái Châu, là kinh đô một thời của "Hoàng đế" Lê Ngọc hẳn phải nổi tiếng là nơi có nhiều công trình kiến trúc quan trọng như thành lũy, trại lính, trại ngựa, chợ, chùa chiền, danh thắng... Về mặt địa hình, đây chắc chắn phải là nơi cao ráo có địa thế rộng rãi và nhất định phải có ưu thế về công - thủ, lưu thông và tập hợp quần cư đông đúc.

Tuy nhiên, do vị trí sát sông Gốm nên cũng như các làng xung quanh (Phúc Ấm, Đồng Xá, Trúc Chuẩn, Hữu Bộc...), Đồng Pho có nhiều vùng đất trũng gọi là roọc (rộc hay dộc) và vì Đồng Pho nhiều roọc nên mới được coi là một đặc trưng của địa phương.

Ở Đồng Pho có chùa Phúc Hưng, tuy nhiên, chùa Phúc Hưng mới có từ Thế kỷ XVII, như vậy sau khi lỵ sở từ Đông Phố từ Thế kỷ XI chuyển về Duy Trinh (Hậu Lộc ngày nay), những chùa chiền cổ ở đây hoặc cũng được chuyển theo hoặc chuyển thành phế tích khi Lê Ngọc bị sát hại (Thế kỷ VII).

Chúng tôi nghĩ rằng làng Phúc Ấm có 2 chùa, nhưng một làng mà có tới 2 chùa thờ Phật cách nhau không đầy 500 m thì chắc phải là đặc trưng quan trọng của làng. Việc lấy 2 đặc trưng của 2 làng làm đơn vị so sánh (cách làm nổi bật trong giai thoại) cho thấy ngụ ý lấy số nhiều hơn, rất nhiều... của nơi này so với nơi khác. Trong dân gian đây là nghệ thuật ẩn dụ truyền miệng kiểu vè sống mãi trong dân nhằm nhấn mạnh tính địa phương đặc trưng.

Một địa danh lỵ sở thuộc chính quyền trực thuộc nhà nước, là Kinh đô nổi dậy của vị Thái thú dũng cảm sao lại không lấy di sản lớn để so sánh mà lại lấy rộc? Rất có thể giai thoại trên xuất hiện sau này khi Đồng Pho đã không còn những chùa thời còn là Kinh đô. Từ khi Lê Ngọc chết (năm 618) cho đến 1029 mới đổi lỵ sở, lẽ nào Đồng Pho lại ít chùa hơn Phúc Ấm? Trước khi Đồng Pho có chùa Phúc Hưng (Thế kỷ XVII) thì Phúc Ấm khi đó đã có 2 chùa? Vậy làng Phúc Ấm có tự bao giờ và chùa ở Phúc Ấm được xây từ năm nào?

2. "Đồng Pho Phúc Ấm Đại Từ, Gặp 3 làng ấy thì từ mặt ra"

Câu này nổi tiếng trong dân gian vùng Nông Cống, Đông Sơn xưa. Cách hiểu câu này cũng có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Theo quan điểm cá nhân, có thể trao đổi trên 2 mặt sau đây:

Quan điểm "kiềng" mặt

Chữ "từ mặt" mang nghĩa khó chơi, khó hợp tác,... là cách hiểu phổ biến, cho là 3 làng không chơi được, do tính ngỗ nghịch, thái độ tránh xa cho yên ổn, để không bị bắt nạt, ức hiếp...

Vị trí 3 làng này như 3 đỉnh của một tam giác cân. Đáy tam giác là Đồng Pho ở phía Bắc và Phúc Ấm ở phía Nam. Đỉnh tam giác là Đại Từ cách Đồng Pho và Phúc Ấm chừng 4km. Trong tam giác ấy còn nhiều làng lớn khác như Ngọc Lậu, Cẩm Nga, Mục Nhuận... Rõ ràng đây không hẳn là 3 làng lớn nhất vùng.

Đồng Pho là làng cổ có giá trị "Kinh đô" thì đương nhiên về hình ảnh có những tác động lớn đến xung quanh, còn Đại Từ là một làng thuộc Doãn Xá. Thời Doãn Xá (thế kỷ XIV), làng Đại Từ thuộc đất lập ấp của họ Doãn. Rất có thể là một số cư dân ở đây cũng chính là người được cấp khi đó (chế độ nô lệ thời Trần) cho Doãn Bang Hiến. Cũng có thể họ là quân lính của vị quan Thượng thư. Nếu vậy họ tất từ xa đến, lại có nguồn gốc quân sự thì việc lập làng Đại Từ phải có tính "giang hồ" kiêu binh... lập địa danh mới sinh sống. Với tính cách ấy, nên "từ mặt" họ có lý do chính đáng.

Vậy Làng Phúc Ấm dựa vào đâu trong quan hệ với 3 làng ở quan điểm này khi vị thế Đồng Pho và Đại Từ rất đáng nể?

Quan điểm kính nể

Đây là quan điểm được cho là ít phổ biến, nhưng tôi thiên về quan điểm này bởi chữ "từ mặt" được hiểu là họ tự thấy mình kém hơn, sự "từ mặt ra" do không đủ sức "chơi" với họ.

Lại phân tích tiếp tính cách người Đồng Pho, rõ ràng điều kiện phát triển ở lỵ sở nhất định tạo ra những người giỏi, người giàu, có thế lực. Đại Từ nếu xét theo nghĩa làng ở đây có 2 giả thuyết: i/ Giả thuyết 1: Họ là dân nhập cư đến thời Doãn Bang Hiến (như đã nói ở trên); ii/ Giả thuyết 2: Họ là dân làng cũ, nhưng bị bán nô lệ cho Doãn Xá trong cơ chế cống đất. Ở giả thuyết 1, nếu họ từ nơi khác đến nhất định sẽ phải đoàn kết nhất trí để làm ăn, sinh sống, vì thế cố kết thống nhất thành một khối và vị thế đồng sức, đồng lòng khi giải quyết các va chạm xã hội. Đó là lợi thế mà các làng khác không có nên họ được kính nể! Còn ở giả thuyết 2 khi họ là làng gốc nhưng bị ép giao ruộng đất cho Doãn Xá chắc chắn là bị va chạm về quyền lợi đất đai, cư trú... với nhà quan lớn. Các xung đột bảo vệ quyền lợi này tạo ra sức mạnh của làng và gây ra sự kính nể cho làng khác.

Vậy làng Phúc Ấm khi đó thì sao? Theo tôi, làng Phúc Ấm cũng có những thế mạnh ngang hàng với 2 làng trên theo nghĩa này. Phúc Ấm cũng được coi là đất học, nhiều người có lý lẽ, có sức thuyết phục. Tất nhiên khi có học, họ sẽ bang giao rộng. Mặt khác đây cũng là nơi có nhiều ruộng đất, nhiều nhà giàu nên có điều kiện kinh tế trong việc tạo ra sức mạnh ở cửa trên để các làng khác phải kính nể. Đó là chưa kể trong quan hệ quyền lực, khi làng có nhiều nhà giàu, có học, có lý lẽ thì thường sẽ có những người tham gia chính quyền. Chính vì thế nên có điều kiện phát huy các giá trị kính nể như tài giỏi, năng động, mạnh mẽ, đoàn kết thành một khối khi quan hệ với các làng khác.

Rõ ràng câu này mang nghĩa kính nể thì hợp lý hơn nghĩa nghịch ngỗ, thiếu văn hóa. Sau này, có người cho rằng thời "giặc" Văn Thân[1], 3 làng này đoàn kết nên "giặc" không làm gì được... Đây cũng là cách giải thích cho giai thoại trên, nhưng điểm quan trọng vẫn là cơ sở nào để Phúc Ấm tạo ra được điều kiện chống "giặc", bảo vệ làng mà các làng khác không chống lại được?

3. "Một sào Phúc Ấm bằng 3 sào Trúc Chuẩn"

Câu này tôi đọc được trong sổ tay viết văn của Tô Hoài khi ông tham gia Cải cách ruộng đất ở Trúc Chuẩn. Ghi chép của ông để nói về kinh nghiệm viết văn. Theo tôi ở đây chỉ thuần túy về kinh tế: Làng Trúc Chuẩn sát sông Gốm (như Đồng Xá, Đồng Pho...) nên mùa màng thất bát rủi ro nhiều hơn so với Phúc Ấm (do ở xa sông hơn và có đường Cửa Rộc chắn ngang hạn chế lụt lội). Làng không chỉ có nhiều ruộng đất mà còn có đất tốt, điều kiện canh tác thuận lợi hơn nên giàu có hơn. Từ sau 1928, nông giang tưới nhờ đập Bái Thượng của người Pháp càng làm cho Phúc Ấm có điều kiện canh tác tốt hơn khi tưới tiêu dễ dàng hơn các cánh đồng làng khác, nhất là Trúc Chuẩn.

 



[1] Xem Phong trào Văn Thân (1864) chủ yếu ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Ở Thanh Hóa thì phong trào có thể bị lợi dụng để gây bạo động mất trật tự ở một số địa phương (nên gọi là "giặc Văn Thân") khi vào những năm thoái trào.

Làng Phúc Ấm - Một vài ý ngoại suy (Bài 4)

1. Phúc Ấm nhất định là ngôi làng cổ, có niên đại không kém các làng cổ khác trong vùng. Một ngôi làng cổ có nhiều dấu tích di sản, từng có chứng tích Mả Tàu và cách quận lỵ (đơn vị trực thuộc nhà nước) 2 km là chứng cứ về sự cư trú lâu đời. Tiếc thay điều đó nay không còn nữa! Những tàn tích của di sản còn in mãi trong thế hệ những con người đã từng chứng kiến. Rồi đây, những biến động của đô thị hóa, làng Phúc Ấm có thể còn bị thay đổi nữa, nhưng hào khí nghìn năm sẽ còn mãi trong tâm hồn của những con người làng Phúc Ấm.

2. Phúc Ấm chắc chắn là làng có nhiều đóng góp cho đất nước. Những giá trị đóng góp được thể hiện thời xưa còn được nêu trong di sản của địa phương, những giá trị thời đại là lớp lớp con em lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, hàng trăm liệt sĩ, thương binh đã đổ máu chiến trường, là con em tham gia hoạt động chính trị, quân sự, khoa học và các hoạt động kinh tế xã hội khác trên mọi miền đất nước. Những kết quả mà họ tạo ra chắc chắn mang trong lòng niềm tự hào từ nơi sinh ra, lớn lên, hội tụ trong họ là tình yêu đất nước từ tình làng nghĩa xóm quê hương Phúc Ấm.

3. Phúc Ấm là làng quê truyền thống văn hóa, yêu văn hóa. Những giá trị di sản là tín ngưỡng tâm linh, là kết tinh của lòng yêu mến quê hương, là biểu thị ứng xử văn hóa. Những năm chiến tranh chống Mỹ ác liệt, dân làng náo nức thưởng thức các buổi chiếu phim lưu động, những đêm xếp gạch sân làng chờ xem hát bội tự biên... Đói no từng trải rau má, cháo khoai nhưng sẻ chia những "nhén lúa lỏn", những củ khoai "móc lọng" xơ sượng là hương vị không thể quên trong những bữa ăn giáp hạt để hình thành kí ức về vị, về hương tạo nên giá trị văn hóa ẩm thực tinh tế mà đậm đà của những món nổ rang làm lớ, bánh đúc lá chuối, chè lam "trấy cố"[1]...

4. Phúc Ấm là quê hương đồng chiêm trũng thuần nông[2], những người con của làng không ai quên những trải nghiệm bắt ốc, kéo te, đánh dậm... đầu đời. Cánh đồng ngập nước quanh năm đã tạo ra hàng trăm kiểu kiếm cá sinh nhai... đầy sáng tạo[3] như đẩn cườn, câu cặm, câu nhắc, đẩn riu, tát đằm, khoát nơm... sau này là ống lươn, đèn man, đặt lờ (lầu) cá rô, đơm tép... Đơn giản cuộc đời, sống hiền hòa củ khoai, ngọn lúa, con tép, con tôm,... mỗi con người làng Phúc Ấm mang nặng tình quê, chăm chỉ kiếm ăn, tích lũy kiến thức, lặng lẽ tình người... tạo nên những tâm hồn yêu thiên nhiên, sống không thể thiếu thiên nhiên bên mình...

 



[1] Những món ăn dân dã địa phương không thấy có ở những miền quê khác. Ghi chú: nhén (bông), lỏn: cắt những bông chắc hạt trước trong ruộng; móc lọng: đào luống khoai lấy tỉa củ non; lớ: món lúa lửng rang lên, giã lấy bột (cả trấu), xúc ăn bằng lá (lá cây gai nhọn, lá bưởi); trấy (trái), chè lam trấy cố: chè lam nặn tròn như quả cố (quả gáo ngoài Bắc).

[2] Ở Đông Yên có đền thờ Bà Bích – Bà chúa tép riu. Truy cập ngày 2-8-2021 tại https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_Y%C3%AAn,_%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n

[3] Lại những kiểu bắt cá ít thấy ở nơi khác: đẩn (đẩy), cườn: ván mỏng, có cái thang nhỏ để trước bụng, khi đẩy nước thì phải chạy thật nhanh để thấy cá loáng qua mà úp bằng nơm; đằm: một ao nhỏ giữa ruộng để khi gặt hay khi ít nước thì cá tập trung vào; khoát nơm: lấy chân té nước rộng ra phía, cá sợ chúi xuống bùn sẽ có dấu bùn thì lấy nơm úp; lầu (lờ); đơm tép: đắp bờ quanh chỗ nước sâu trên ruộng lúa, khi nắng lên thì lờ quay ra ruộng để nước ruộng nóng thì tép rút xuống chỗ sâu tránh nóng, chiều tối đặt ngược lại khi tép quay ra ruộng kiếm ăn lúc nước mát hơn...

Làng Phúc Ấm trong quan hệ lâu dài với cộng đồng địa phương (Bài 2)

1. Làng Phúc Ấm trong tư liệu địa danh hành chính

Để thấy rõ hơn địa danh làng Phúc Ấm, chúng tôi trước hết điểm qua danh xưng có tính chất hành chính địa phương, từ đó có cơ sở để xác định mối quan hệ với những địa phương khác và tập trung phân tích quan hệ giữa làng với những địa danh quan trọng trong phạm vi bán kính 10km nhằm nêu lên những giả thuyết có cơ sở về địa danh làng Phúc Ấm.

1.1 Danh xưng Thanh Hóa

Thanh Hóa là nơi sinh sống của người Việt cổ từ 6000 năm trước. Cuộc khảo cổ học 1926 của người Pháp tại Đa Bút (xã Vĩnh Tân, Vĩnh Lộc ngày nay) đã khẳng định văn hóa Đa Bút[1] thuộc thời với văn hóa Hòa Bình. Còn cuộc khảo cổ học của người Pháp năm 1924 tại Đông Sơn[2] cho thấy Văn hóa Đông Sơn xuất hiện từ Thế kỷ VII trước CN cho đến Thế kỷ I và II sau CN.

Thời dựng nước: Thanh Hóa thuộc Bộ Cửu Chân[3] của nước Văn Lang (tương đương Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay).

Thời Bắc thuộc[4] (từ 179 trước CN cho đến năm 938): Thời nhà Hán, đây là đất thuộc quận Cửu Chân. Thời Tam Quốc, Đông Ngô trực tiếp cai trị và chia quận Cửu Chân thành 2 là Cửu Chân (gồm Thanh Hóa và một phần Ninh Bình ngày nay) và Cửu Đức (Nghệ An và Hà Tĩnh). Thời Nhà Lương gọi quận Cửu Chân thành quận Ái Châu, nhưng sang thời nhà Tùy thì lại đổi Ái Châu thành Cửu Chân. Nhà Đường (năm 622) đổi Cửu Chân thành Ái Châu Cửu Chân quận, năm 742 lại đổi thành Cửu Chân. Sang đời Nhà Nguyên (năm 758) lại gọi là Ái Châu.

Thời quân chủ[5] (939-1945): Nhà Đinh và Tiền Lê gọi Thanh Hóa là đạo Ái Châu. Đến đời Lý (năm 1029) đổi thành Phủ Thanh Hóa. Đây là danh xưng Thanh Hóa đầu tiên trong lịch sử được ngành văn hóa tỉnh Thanh Hóa xác nhận. Tuy vậy, năm 1397 thời Trần, phủ Thanh Hóa được đổi thành Trấn Thanh Đô, năm 1430 nhà Hồ gọi là Phủ Thiên Xương. Những năm thuộc nhà Minh cai trị thì tên Thiên Xương lại đổi thành Thanh Hóa. Thời Hậu Lê, năm 1428, Lê Lợi chia đất nước thành 5 đạo thì Thanh Hóa thuộc Hải Tây đạo. Năm 1466, Lê Thánh Tông gọi là Thừa Tuyên Thanh Hóa. Đến năm Hồng Đức 21 (1490) đổi thành xứ Thanh Hoa. Thời Gia Long (1802) gọi là Trấn Thanh Hoa, đến Thiệu Trị năm thứ 1 (1841) đổi Thanh Hoa thành Thanh Hóa (do kị húy Hoàng Thái hậu Hồ Thị Hoa) và từ đó Thanh Hóa không thay đổi tên cho đến ngày nay.

Mặc dù nhiều thay đổi nhưng tên Cửu Chân, Ái Châu hay Thanh Hóa luôn là đơn vị hành chính trực thuộc nhà nước (như đơn vị tỉnh ngày nay). Chính vì thế, đây là vùng đất luôn có nhiều ảnh hưởng quan trọng đến vận mệnh đất nước mọi thời đại.

1.2 Danh xưng Đông Sơn

Thời Nhà Hán, Đông Sơn là vùng đất thuộc huyện Tư Phố (phần phía bắc huyện) và huyện Cư Phong (phần phía nam huyện). Thời nhà Đường, năm 622 chia Ái Châu thành 4 huyện, Tư Phố (có thể) khi đó thuộc huyện Cửu Chân. Thời quân chủ, khi nhà Trần gọi Thanh Hóa là Trấn Thanh Đô (1397) thì bắt đầu có tên huyện Đông Sơn. Năm 1419, nhà Minh nhập huyện Đông Sơn vào huyện Cổ Đằng. Thời Hậu Lê, năm 1435, Đông Sơn thuộc phủ Thiệu Thiên. Thời Nguyễn, huyện Đông Sơn thuộc phủ Thiệu Hóa (khi đó đổi Thiệu Thiên thành Thiệu Hóa). Như vậy danh xưng Đông Sơn có thể có từ thời nhà Trần (1397). Tuy nhiên, dưới tên Tư Phố và Cư Phong, đất Đông Sơn đã có từ những năm đầu Bắc thuộc[6].

1.3 Các cấp hành chính trực tiếp của làng Phúc Ấm trong lịch sử

Rất tiếc chúng tôi chưa có điều kiện khảo cứu chi tiết làng Phúc Ấm có từ bao giờ và các đơn vị hành chính quản lý trực tiếp làng trước thời Nguyễn.

Thời Gia Long, huyện Đông Sơn thuộc phủ Thiệu Hóa có 6 tổng với 145 xã, thôn, trang, vạn, gia, giáp, sở, phường (nghĩa là các đơn vị hành chính dưới tổng, tên gọi chưa được thống nhất). Các xã, thôn, làng... đó thuộc Đông Yên, Đông Thịnh, Đông Anh ngày nay khi đó thuộc tổng Lê Nguyễn (thời Gia Long), tổng Thanh Hoa (từ thời Minh Mạng 1824 cho đến 1886) và từ 1887 - 1945 gọi là tổng Tuyên Hóa[7].

Sau Cách mạng Tháng 8 -1945, 7 tổng của Đông Sơn được chia thành 22 xã thì Đông Yên khi đó gọi là xã Vạn Thắng. Năm 1948, xã Vạn Thắng đổi thành Đông Yên cho đến ngày nay. Đông Yên gồm Cẩm Nga, Trường Lai, Mục Nhuận, Doãn Xá, Trung Hàng, Phúc Ấm và làng Bằng[8].

2. Làng Phúc Ấm thuộc vùng văn hóa lâu đời

Năm 1981, các công trình khảo cổ học tại Đông Yên - Đông Hòa[9] đã công bố nhiều di tích quan trọng: tại di chỉ Đông Hòa phát hiện trống đồng Đông Hòa 1 và Đông Hòa 2, tại di tích Cồn Sồng, Bãi Phủ, Cồn Trôi đều có các chứng cứ liên quan đến thời kỳ văn hóa Đông Sơn (Thế kỷ 7 trước CN đến thế kỷ I và II sau CN). Các di chỉ này chỉ cách làng Phúc Ấm khoảng 2km.

3. Làng Phúc Ấm trong quan hệ với những địa danh nổi tiếng trong vùng

Các tên làng nổi tiếng xứ Thanh quanh vùng là Cổ Định, Cổ Bôn, Đồng Pho, Trường Xuân, Doãn Xá, Đồng Xá, Ngọc Lậu, Đại Từ, Mục Nhuận, Phúc Ấm,... Dưới đây là một số điểm có liên quan làng Phúc Ấm.

3.1 Cổ Định - Ngàn Nưa lịch sử

Cổ Định - Ngàn Nưa[10] là nơi cư trú lâu đời của người Việt, cách làng Phúc Ấm khoảng 7km. Làng Cổ Định sát chân núi Nưa (Na Sơn) nay thuộc Thị trấn Nưa là nơi phát tích cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh (năm 248) đánh quân Đông Ngô[11]. Cổ Định là nơi phát tích của nhiều dòng họ nổi tiếng: Doãn, Hứa, Lê Bật, Trịnh, Nguyễn, Hoàng, Phan, Ngô... Đây là địa danh được cho là có từ thời vua Hùng dựng nước với tên Chạ kẻ Nưa (dưới chân Ngàn Nưa). Các thời Hán, Tùy, Đường có tên Cà Ná giáp, thời Lý, Trần đổi thành Cổ Na. Thời Lê Sơ, Lê Thái Tổ đổi thành Cổ Ninh, sau đó Cổ Ninh đổi thành Cổ Định thời Lê Trung Hưng (để tranh tên húy vua Lê Ninh tức Lê Trung Tông).

Cổ Định có nhiều danh nhân văn hóa nổi tiếng. Thời phong kiến có 24 vị tiến sĩ, trong đó có 4 vị lãnh việc đi sứ sang Trung Quốc, đem lại nhiều kết quả tốt đẹp cho Việt Nam. (Doãn Anh Khai đi sứ thời nhà Tống, Doãn Tử Tư đi sứ thời nhà Tống, Doãn Bang Hiến đi sứ thời nhà Nguyên, Lê Bật Tứ đi sứ thời nhà Minh). Ở đây còn có Doãn Nỗ (chắt nội Doãn Bang Hiến) là khai quốc công thần thời Lam Sơn... Cổ Định (nay là Thị trấn Nưa) có rất nhiều di tích cổ xưa thể hiện danh tiếng ngôi làng cổ Việt Nam với nhiều tên đất, tên người huyền thoại trong suốt hơn 1000 năm qua.

3.2 Đồng Pho và Kinh đô Trường Xuân

Đồng Pho xưa có tên là Đông Phố, là lỵ sở hành chính của quận Cửu Chân, nay là xã Đông Hòa, Đông Sơn (cách làng Phúc Ấm chưa đến 2km).

Từ năm 420, Quận Cửu Chân lấy Đông Phố làm lỵ sở hành chính. Di chỉ khảo cổ 1981 (như trên đã nói trên) cho thấy đây là nơi có người cư trú từ thời văn hóa Đông Sơn. Đến Thời Lý, lỵ sở của Cửu Chân, Ái Châu trước từ Đông Phố được chuyển về Duy Trinh[12] (nay thuộc Văn Lộc, Mỹ Lộc, Thiên Lộc của Hậu Lộc). Như vậy Đông Phố là trung tâm hành chính của Cửu Chân, Ái Châu trong suốt hơn 600 năm, từ 420 - 1029.

Kinh đô Trường Xuân (608-618) và "Hoàng đế" Lê Ngọc: Trường Xuân nay thuộc Đông Ninh, Đông Sơn, cách làng Phúc Ấm khoảng 6km. Lê Ngọc[13] (còn gọi là Lê Cốc) là Thái thú quận Nhật Nam (tương ứng Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay), sau đó nhà Tùy đổi thành quận Cửu Chân. Khi nhà Đường thay thế nhà Tùy, Lê Ngọc không thuần phục đã nổi dậy tự quản quận Cửu Chân chống nhà Đường. Năm 608, Lê Ngọc đóng đô ở Đông Phố gọi là Kinh đô Trường Xuân (gồm cả Đông Ninh và Đông Hòa ngày nay). Tại Đông Hòa vẫn còn nhiều di tích dấu vết Kinh thành Trường Xuân thời Lê Ngọc. Đến 618 cuộc nổi dậy bị nhà Đường tiêu diệt, Lê Ngọc và 4 con (3 trai 1 gái) bị tử nạn. Nay ở làng Trường Xuân (Đông Ninh)[14] còn lưu giữ 2 sắc phong triều đình thời Lê Trung Hưng (Cảnh Hưng năm thứ 1, 1740) gọi Lê Ngọc là "Hoàng đế" có công Hộ quốc tý dân (giúp nước che chở cho dân). Gần đây người ta còn tìm thấy bia đá cổ nhất Việt Nam[15]: Bia Trường Xuân có chữ "Đại Tùy Bải An Đạo Trương Chi Vi Văn". Lê Ngọc và 4 con ông được thờ nhiều nơi quanh vùng, nhất là Đông Ninh, Đông Hòa, Đông Phú và Cổ Định (Cổ Định là nơi con trai út của ông bị thương và chết tại đây) và nhiều nơi ở huyện Nông Cống.

3.3 Doãn Xá và Thượng thư Doãn Bang Hiến

Doãn Xá (nơi cư trú của người họ Doãn) gồm Ngọc Lậu, Đà Ninh, Đại Từ (thuộc Đông Thịnh), Nhuệ Sâm (nay thuộc Thị trấn Rừng Thông), làng Doãn (thuộc Đông Yên), thôn Thiều (thuộc Đông Văn) là đất phong ấp cho Doãn Bang Hiến[16] khi ông có công trong đi sứ nhà Nguyên. Doãn Bang Hiến (1272-1322) (dân còn gọi ông là Bang Hài) người làng Cổ Định, đỗ tiến sĩ năm 1304, Thượng thư Bộ Lại năm 1314, Thượng thư Bộ Hình năm 1322 và đi sứ năm 1322. Khi đi sứ nhà Nguyên, ông đòi được đất đai tranh chấp, trên đường về ông mất. Vua Trần Anh Tông ban cho ông 100 mẫu đất (mẫu Trung bộ, khoảng 0,5km2) để lập ấp Doãn Xá. Con trai ông là Doãn Định (1312-1363) là Giám sát ngự sử, chắt nội ông là Doãn Nỗ, khai quốc công thần thời khởi nghĩa Lam Sơn (như đã nói ở trên). Làng Phúc Ấm cách Doãn Xá khoảng 5 – 7km, nhưng Phúc Ấm cùng với làng Doãn là các đơn vị làng thuộc xã Đông Yên trước 1954.

3.4 Những địa danh nổi tiếng khác

Các địa danh nổi tiếng luôn gắn với những con người và dấu ấn mang tính lịch sử của hiền tài phát sinh được vinh danh và thờ phụng.

a/ Làng Cổ Bôn[17] (cách làng Phúc Ấm gần 10km)

Thời phong kiến, làng Cổ Bôn có tới 7 vị đỗ tiến sĩ được tạc bia ở Văn Miếu Quốc Tử Giám, trong đó tiêu biểu nhất là Nho thần Nguyễn Văn Nghi, Đệ nhất Giáp chế khoa, khoa thi năm Giáp Dần (1554), được phong tặng là Tuyên Lực Công Thần, là thầy dạy của 2 vị vua: Lê Anh Tông và Lê Thế Tông. Làng Cổ Bôn còn nhiều dòng họ lớn và sản sinh ra nhiều “nhân kiệt” như họ Thiều, Cao, Lê Khả, Lưu, La... góp phần làm cho vùng này trở thành “đất học” của xứ Thanh.

b/ Các làng Cẩm Nga, Mục Nhuận, Trường Lai, Doãn Xá, Trung Hàng, Trùa Tra và Làng Bằng cùng Phúc Ấm xưa đều thuộc tổng Lê Nguyễn[18] (sau đổi thành tổng Tuyên Hóa) và từ 1953 là các đơn vị thuộc xã Đông Yên. Ở đây có di tích Cồn Trôi (thuộc Văn hóa Đông Sơn Thế kỷ VII trước CN đến Thế kỷ I và II sau CN), có chứng cứ thời Trần (Doãn Xá), có đền thờ Nguyễn Nhữ Soạn, Lê Ngân, Phạm Cuống là các vị khai quốc công thần thời khởi nghĩa Lam Sơn. Rõ ràng chứng cứ người Việt cách đây 2000 năm và các chứng cứ thời Trần, thời Lê Sơ phải chăng là các khẳng định cư trú, lập làng và phát triển của Phúc Ấm cùng các làng trên.

c/ Các làng Ngọc Lậu, Đại Từ... (nay thuộc Đông Thịnh[19]) cách Phúc Ấm 5km là những làng có chứng cứ thời Trần (liên quan đến Doãn Bang Hiến).

d/ Làng Hoàng Lạp (nay thuộc Đông Phú[20]) có Nghè thờ Thần hoàng lập làng là con trai thứ của Lê Ngọc, chứng cứ lập làng từ Thế kỷ VII.

e/ Các làng Minh, Phú, Hiền, Thư, Bình, Chính, Thượng, Tự, Cựu, Đại, Tân, Hòa là 12 làng cổ của quận lỵ Đông Phố (Đồng Pho) nay thuộc Đông Hòa[21], cùng các làng Hữu Bộc, Trường Xuân... (nay thuộc Đông Ninh[22]) từng nổi tiếng từ Thế kỷ V và Thời Lê Ngọc Thế kỷ VII. Đông Hòa còn 3 di chỉ khảo cổ khẳng định Văn hóa Đông Sơn, có đền thờ Lê Ngọc. Đông Ninh còn đền thờ Nguyễn Chích, Lê Lan – Lê Lệnh (khai quốc công thần thời khởi nghĩa Lam Sơn)

g/ Thành Hoàng Nghiêu[23] (nay thuộc xã Đông Nam, Đông Sơn) cách Phúc Ấm 6km là di tích lịch sử từ Thế kỷ XV của Nguyễn Chích.

Như vậy, trong bán kính cách làng 10km có mật độ di tích, huyền tích... dày đặc, liên quan chặt chẽ trong không gian cộng đồng làng quê. Điều đó càng khẳng định các ảnh hưởng của lịch sử đến sự hình thành, tồn tại và phát triển của làng Phúc Ấm.

 



[1] Văn hóa Đa Bút: nền văn hóa Việt Nam ở sơ kỳ thời đại đồ đá mới có niên đại sau các nền văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, cách đây từ 5000 đến 6000 năm. Không gian của văn hóa Đa Bút là dải đất nằm từ hữu ngạn sông Đáy đến tả ngạn sông Mã thuộc các tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa ngày nay. Xem tại trang website

https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%C3%B3a_%C4%90a_B%C3%BAt (truy cập ngày 1-8-2021).

[2] Văn hóa Đông Sơn: nền văn hóa cổ xuất hiện vào khoảng 800 năm trước công nguyên, tồn tại ở một số tỉnh miền Bắc Việt Nam và Bắc Trung bộ Việt Nam. Truy cập ngày 1-8-2021 tại website

https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%C3%B3a_%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n

[3] Xem tại website https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%ADu_Ch%C3%A2n (truy cập ngày 25-7-2021).

[4] Lịch sử hành chính Thanh Hóa, truy cập ngày 5-5-2021 tại website

https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_h%C3%A0nh_ch%C3%ADnh_Thanh_H%C3%B3a.

[5] Lịch sử hành chính Thanh Hóa, truy cập ngày 5-5-2021 tại website

https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD_h%C3%A0nh_ch%C3%ADnh_Thanh_H%C3%B3a

[6] Huyện Đông Sơn, Thanh Hóa, xem https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n (truy cập ngày 25-5-2021).

[7] Theo Nguyễn Văn Nhật (chủ biên): Địa chí huyện Đông Sơn. NXB Khoa học – Xã hội 2006 và xem https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n (truy cập ngày 25-5-2021).

[8] Xã Đông Yên, Đông Sơn, truy cập ngày 25-5-2021 tại website

https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_Y%C3%AAn,_%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n

[9] Theo https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_Y%C3%AAn,_%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n và https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_H%C3%B2a,_%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n (truy cập ngày 25-5-2021).

[10] Xem https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C6%B0a_(th%E1%BB%8B_tr%E1%BA%A5n) ngày 30-5-2021.

[11] Xem https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_H%C3%B2a,_%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n ngày 30-5-2021.

[12] Xem http://donghoa.dongson.gov.vn/web/trang-chu/tong-quan/lich-su-hinh-thanh (truy cập ngày 30-5-2021).

[13] Cuộc khởi nghĩa Lê Ngọc, truy cập ngày 30-5-2021 tại website

https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BB%9Fi_ngh%C4%A9a_L%C3%AA_Ng%E1%BB%8Dc.

[14] Xem Đông Ninh, Đông Sơn tại website (truy cập ngày 25-4-2021) https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_Ninh,_%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n

[15] Xem https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/1002/28148/bia-truong-xuan.html (truy cập ngày 20-11-2021).

[16] Doãn Bang Hiến: xem tại https://vi.wikipedia.org/wiki/Do%C3%A3n_Bang_Hi%E1%BA%BFn (truy cập ngày 30-4-2021).

[17] Xem tại website https://baothanhhoa.vn/van-hoa-giai-tri/lang-co-bon-lang-khoa-bang/91551.htm và https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_Thanh,_%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n (truy cập ngày 25-5-2021).

[18] Truy cập ngày 2-8-2021 tại https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_Y%C3%AAn,_%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n

[19] Xem tại https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_Th%E1%BB%8Bnh (truy cập ngày 2-8-2021).

[20] Truy cập ngày 2-8-2021 tại https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_Ph%C3%BA,_%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n 

[21] Truy cập ngày 2-8-2021 tại https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_H%C3%B2a,_%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n

[22] Xem tại https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng_Ninh,_%C4%90%C3%B4ng_S%C6%A1n (truy cập ngày 2-8-2021).

[23] Xem tại https://daibieunhandan.vn/thanh-luy-hoang-nghieu-va-anh-hung-nguyen-chich-338219 (truy cập ngày 2-8-2021).