1. Làng Phúc Ấm trong tư liệu địa danh hành
chính
Để
thấy rõ hơn địa danh làng Phúc Ấm, chúng tôi trước hết điểm qua danh
xưng có tính chất hành chính địa phương, từ đó có cơ sở để xác
định mối quan hệ với những địa phương khác và tập trung phân tích
quan hệ giữa làng với những địa danh quan trọng trong phạm vi bán
kính 10km nhằm nêu lên những giả thuyết có cơ sở về địa danh làng
Phúc Ấm.
1.1
Danh xưng Thanh Hóa
Thanh
Hóa là nơi sinh sống của người Việt cổ từ 6000 năm trước. Cuộc khảo
cổ học 1926 của người Pháp tại Đa Bút (xã Vĩnh Tân, Vĩnh Lộc ngày
nay) đã khẳng định văn hóa Đa Bút thuộc
thời với văn hóa Hòa Bình. Còn cuộc khảo cổ học của người Pháp năm
1924 tại Đông Sơn
cho thấy Văn hóa Đông Sơn xuất hiện từ Thế kỷ VII trước CN cho đến
Thế kỷ I và II sau CN.
Thời
dựng nước: Thanh Hóa thuộc Bộ Cửu Chân của
nước Văn Lang (tương đương Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay).
Thời
Bắc thuộc
(từ 179 trước CN cho đến năm 938): Thời nhà Hán, đây là đất thuộc
quận Cửu Chân. Thời Tam Quốc, Đông Ngô trực tiếp cai trị và chia quận
Cửu Chân thành 2 là Cửu Chân (gồm Thanh Hóa và một phần Ninh Bình
ngày nay) và Cửu Đức (Nghệ An và Hà Tĩnh). Thời Nhà Lương gọi quận
Cửu Chân thành quận Ái Châu, nhưng sang thời nhà Tùy thì lại đổi Ái
Châu thành Cửu Chân. Nhà Đường (năm 622) đổi Cửu Chân thành Ái Châu
Cửu Chân quận, năm 742 lại đổi thành Cửu Chân. Sang đời Nhà Nguyên (năm
758) lại gọi là Ái Châu.
Thời
quân chủ
(939-1945): Nhà Đinh và Tiền Lê gọi Thanh Hóa là đạo Ái Châu. Đến đời
Lý (năm 1029) đổi thành Phủ Thanh Hóa. Đây là danh xưng Thanh Hóa đầu
tiên trong lịch sử được ngành văn hóa tỉnh Thanh Hóa xác nhận. Tuy
vậy, năm 1397 thời Trần, phủ Thanh Hóa được đổi thành Trấn Thanh Đô,
năm 1430 nhà Hồ gọi là Phủ Thiên Xương. Những năm thuộc nhà Minh cai
trị thì tên Thiên Xương lại đổi thành Thanh Hóa. Thời Hậu Lê, năm 1428,
Lê Lợi chia đất nước thành 5 đạo thì Thanh Hóa thuộc Hải Tây đạo. Năm
1466, Lê Thánh Tông gọi là Thừa Tuyên Thanh Hóa. Đến năm Hồng Đức 21
(1490) đổi thành xứ Thanh Hoa. Thời Gia Long (1802) gọi là Trấn Thanh
Hoa, đến Thiệu Trị năm thứ 1 (1841) đổi Thanh Hoa thành Thanh Hóa (do kị
húy Hoàng Thái hậu Hồ Thị Hoa) và từ đó Thanh Hóa không thay đổi tên
cho đến ngày nay.
Mặc
dù nhiều thay đổi nhưng tên Cửu Chân, Ái Châu hay Thanh Hóa luôn là đơn
vị hành chính trực thuộc nhà nước (như đơn vị tỉnh ngày nay). Chính
vì thế, đây là vùng đất luôn có nhiều ảnh hưởng quan trọng đến vận
mệnh đất nước mọi thời đại.
1.2
Danh xưng Đông Sơn
Thời
Nhà Hán, Đông Sơn là vùng đất thuộc huyện Tư Phố (phần phía bắc
huyện) và huyện Cư Phong (phần phía nam huyện). Thời nhà Đường, năm
622 chia Ái Châu thành 4 huyện, Tư Phố (có thể) khi đó thuộc huyện
Cửu Chân. Thời quân chủ, khi nhà Trần gọi Thanh Hóa là Trấn Thanh Đô
(1397) thì bắt đầu có tên huyện Đông Sơn. Năm 1419, nhà Minh nhập huyện
Đông Sơn vào huyện Cổ Đằng. Thời Hậu Lê, năm 1435, Đông Sơn thuộc phủ
Thiệu Thiên. Thời Nguyễn, huyện Đông Sơn thuộc phủ Thiệu Hóa (khi đó
đổi Thiệu Thiên thành Thiệu Hóa). Như vậy danh xưng Đông Sơn có thể có
từ thời nhà Trần (1397). Tuy nhiên, dưới tên Tư Phố và Cư Phong, đất
Đông Sơn đã có từ những năm đầu Bắc thuộc.
1.3
Các cấp hành chính trực tiếp của làng Phúc Ấm trong lịch sử
Rất
tiếc chúng tôi chưa có điều kiện khảo cứu chi tiết làng Phúc Ấm có từ bao giờ
và các đơn vị hành chính quản lý trực tiếp làng trước thời Nguyễn.
Thời
Gia Long, huyện Đông Sơn thuộc phủ Thiệu Hóa có 6 tổng với 145 xã,
thôn, trang, vạn, gia, giáp, sở, phường (nghĩa là các đơn vị hành
chính dưới tổng, tên gọi chưa được thống nhất). Các xã, thôn, làng...
đó thuộc Đông Yên, Đông Thịnh, Đông Anh ngày nay khi đó thuộc tổng Lê
Nguyễn (thời Gia Long), tổng Thanh Hoa (từ thời Minh Mạng 1824 cho đến
1886) và từ 1887 - 1945 gọi là tổng Tuyên Hóa.
Sau
Cách mạng Tháng 8 -1945, 7 tổng của Đông Sơn được chia thành 22 xã thì
Đông Yên khi đó gọi là xã Vạn Thắng. Năm 1948, xã Vạn Thắng đổi
thành Đông Yên cho đến ngày nay. Đông Yên gồm Cẩm Nga, Trường Lai, Mục
Nhuận, Doãn Xá, Trung Hàng, Phúc Ấm và làng Bằng.
2. Làng Phúc Ấm thuộc vùng văn hóa lâu đời
Năm
1981, các công trình khảo cổ học tại Đông Yên - Đông Hòa đã công
bố nhiều di tích quan trọng: tại di chỉ Đông Hòa phát hiện trống
đồng Đông Hòa 1 và Đông Hòa 2, tại di tích Cồn Sồng, Bãi Phủ, Cồn
Trôi đều có các chứng cứ liên quan đến thời kỳ văn hóa Đông Sơn (Thế
kỷ 7 trước CN đến thế kỷ I và II sau CN). Các di chỉ này chỉ cách
làng Phúc Ấm khoảng 2km.
3. Làng Phúc Ấm trong quan hệ với những địa
danh nổi tiếng trong vùng
Các
tên làng nổi tiếng xứ Thanh quanh vùng là Cổ Định, Cổ Bôn, Đồng Pho,
Trường Xuân, Doãn Xá, Đồng Xá, Ngọc Lậu, Đại Từ, Mục Nhuận, Phúc
Ấm,... Dưới đây là một số điểm có liên quan làng Phúc Ấm.
3.1
Cổ Định - Ngàn Nưa lịch sử
Cổ
Định - Ngàn Nưa là nơi
cư trú lâu đời của người Việt, cách làng Phúc Ấm khoảng 7km. Làng
Cổ Định sát chân núi Nưa (Na Sơn) nay thuộc Thị trấn Nưa là nơi phát
tích cuộc khởi nghĩa của Triệu Thị Trinh (năm 248) đánh quân Đông Ngô. Cổ
Định là nơi phát tích của nhiều dòng họ nổi tiếng: Doãn, Hứa, Lê
Bật, Trịnh, Nguyễn, Hoàng, Phan, Ngô... Đây là địa danh được cho là có
từ thời vua Hùng dựng nước với tên Chạ kẻ Nưa (dưới chân Ngàn
Nưa). Các thời Hán, Tùy, Đường có tên Cà Ná giáp, thời Lý, Trần
đổi thành Cổ Na. Thời Lê Sơ, Lê Thái Tổ đổi thành Cổ Ninh, sau đó Cổ
Ninh đổi thành Cổ Định thời Lê Trung Hưng (để tranh tên húy vua Lê Ninh
tức Lê Trung Tông).
Cổ
Định có nhiều danh nhân văn hóa nổi tiếng. Thời phong kiến có 24 vị
tiến sĩ, trong đó có 4 vị lãnh việc đi sứ sang Trung Quốc, đem lại
nhiều kết quả tốt đẹp cho Việt Nam. (Doãn Anh Khai đi sứ thời nhà
Tống, Doãn Tử Tư đi sứ thời nhà Tống, Doãn Bang Hiến đi sứ thời nhà
Nguyên, Lê Bật Tứ đi sứ thời nhà Minh). Ở đây còn có Doãn Nỗ (chắt
nội Doãn Bang Hiến) là khai quốc công thần thời Lam Sơn... Cổ Định
(nay là Thị trấn Nưa) có rất nhiều di tích cổ xưa thể hiện danh tiếng
ngôi làng cổ Việt Nam với nhiều tên đất, tên người huyền thoại trong
suốt hơn 1000 năm qua.
3.2
Đồng Pho và Kinh đô Trường Xuân
Đồng
Pho xưa có tên
là Đông Phố, là lỵ sở hành chính của quận Cửu Chân, nay là xã Đông
Hòa, Đông Sơn (cách làng Phúc Ấm chưa đến 2km).
Từ
năm 420, Quận Cửu Chân lấy Đông Phố làm lỵ sở hành chính. Di chỉ
khảo cổ 1981 (như trên đã nói trên) cho thấy đây là nơi có người cư
trú từ thời văn hóa Đông Sơn. Đến Thời Lý, lỵ sở của Cửu Chân, Ái
Châu trước từ Đông Phố được chuyển về Duy Trinh (nay
thuộc Văn Lộc, Mỹ Lộc, Thiên Lộc của Hậu Lộc). Như vậy Đông Phố là
trung tâm hành chính của Cửu Chân, Ái Châu trong suốt hơn 600 năm, từ
420 - 1029.
Kinh
đô Trường Xuân (608-618) và "Hoàng đế" Lê Ngọc: Trường Xuân nay thuộc Đông Ninh,
Đông Sơn, cách làng Phúc Ấm khoảng 6km. Lê Ngọc (còn
gọi là Lê Cốc) là Thái thú quận Nhật Nam (tương ứng Nghệ An, Hà
Tĩnh ngày nay), sau đó nhà Tùy đổi thành quận Cửu Chân. Khi nhà Đường
thay thế nhà Tùy, Lê Ngọc không thuần phục đã nổi dậy tự quản quận
Cửu Chân chống nhà Đường. Năm 608, Lê Ngọc đóng đô ở Đông Phố gọi là
Kinh đô Trường Xuân (gồm cả Đông Ninh và Đông Hòa ngày nay). Tại Đông
Hòa vẫn còn nhiều di tích dấu vết Kinh thành Trường Xuân thời Lê
Ngọc. Đến 618 cuộc nổi dậy bị nhà Đường tiêu diệt, Lê Ngọc và 4 con
(3 trai 1 gái) bị tử nạn. Nay ở làng Trường Xuân (Đông Ninh) còn lưu
giữ 2 sắc phong triều đình thời Lê Trung Hưng (Cảnh Hưng năm thứ 1, 1740)
gọi Lê Ngọc là "Hoàng đế" có công Hộ quốc tý dân
(giúp nước che chở cho dân). Gần đây người ta còn tìm thấy bia đá cổ
nhất Việt Nam:
Bia Trường Xuân có chữ "Đại Tùy Bải An Đạo Trương Chi Vi Văn".
Lê Ngọc và 4 con ông được thờ nhiều nơi quanh vùng, nhất là Đông Ninh,
Đông Hòa, Đông Phú và Cổ Định (Cổ Định là nơi con trai út của ông bị
thương và chết tại đây) và nhiều nơi ở huyện Nông Cống.
3.3
Doãn Xá và Thượng thư Doãn Bang Hiến
Doãn
Xá (nơi cư trú của người họ Doãn) gồm Ngọc Lậu, Đà Ninh, Đại Từ
(thuộc Đông Thịnh), Nhuệ Sâm (nay thuộc Thị trấn Rừng Thông), làng
Doãn (thuộc Đông Yên), thôn Thiều (thuộc Đông Văn) là đất phong ấp cho
Doãn Bang Hiến
khi ông có công trong đi sứ nhà Nguyên. Doãn Bang Hiến (1272-1322) (dân
còn gọi ông là Bang Hài) người làng Cổ Định, đỗ tiến sĩ năm 1304,
Thượng thư Bộ Lại năm 1314, Thượng thư Bộ Hình năm 1322 và đi sứ năm
1322. Khi đi sứ nhà Nguyên, ông đòi được đất đai tranh chấp, trên đường
về ông mất. Vua Trần Anh Tông ban cho ông 100 mẫu đất (mẫu Trung bộ, khoảng
0,5km2) để lập ấp Doãn Xá. Con trai ông là Doãn Định
(1312-1363) là Giám sát ngự sử, chắt nội ông là Doãn Nỗ, khai quốc
công thần thời khởi nghĩa Lam Sơn (như đã nói ở trên). Làng Phúc Ấm
cách Doãn Xá khoảng 5 – 7km, nhưng Phúc Ấm cùng với làng Doãn là
các đơn vị làng thuộc xã Đông Yên trước 1954.
3.4
Những địa danh nổi tiếng khác
Các
địa danh nổi tiếng luôn gắn với những con người và dấu ấn mang tính
lịch sử của hiền tài phát sinh được vinh danh và thờ phụng.
a/
Làng Cổ Bôn
(cách làng Phúc Ấm gần 10km)
Thời phong kiến, làng Cổ Bôn có tới 7 vị đỗ tiến sĩ
được tạc bia ở Văn Miếu Quốc Tử Giám, trong đó tiêu biểu nhất là Nho thần
Nguyễn Văn Nghi, Đệ nhất Giáp chế khoa, khoa thi năm Giáp Dần (1554), được
phong tặng là Tuyên Lực Công Thần, là thầy dạy của 2 vị vua: Lê Anh Tông và Lê
Thế Tông. Làng Cổ Bôn còn nhiều dòng họ lớn và sản sinh ra nhiều “nhân kiệt”
như họ Thiều, Cao, Lê Khả, Lưu, La... góp phần làm cho vùng này trở thành “đất
học” của xứ Thanh.
b/ Các làng Cẩm Nga, Mục Nhuận, Trường Lai,
Doãn Xá, Trung Hàng, Trùa Tra và Làng Bằng cùng Phúc Ấm xưa đều
thuộc tổng Lê Nguyễn
(sau đổi thành tổng Tuyên Hóa) và từ 1953 là các đơn vị thuộc xã
Đông Yên. Ở đây có di tích Cồn Trôi (thuộc Văn hóa Đông Sơn Thế kỷ VII
trước CN đến Thế kỷ I và II sau CN), có chứng cứ thời Trần (Doãn
Xá), có đền thờ Nguyễn Nhữ Soạn, Lê Ngân, Phạm Cuống là các vị khai
quốc công thần thời khởi nghĩa Lam Sơn. Rõ ràng chứng cứ người Việt
cách đây 2000 năm và các chứng cứ thời Trần, thời Lê Sơ phải chăng là
các khẳng định cư trú, lập làng và phát triển của Phúc Ấm cùng
các làng trên.
c/
Các làng Ngọc Lậu, Đại Từ... (nay thuộc Đông Thịnh) cách
Phúc Ấm 5km là những làng có chứng cứ thời Trần (liên quan đến Doãn
Bang Hiến).
d/
Làng Hoàng Lạp (nay thuộc Đông Phú) có
Nghè thờ Thần hoàng lập làng là con trai thứ của Lê Ngọc, chứng cứ
lập làng từ Thế kỷ VII.
e/
Các làng Minh, Phú, Hiền, Thư, Bình, Chính, Thượng, Tự, Cựu, Đại,
Tân, Hòa là 12 làng cổ của quận lỵ Đông Phố (Đồng Pho) nay thuộc Đông
Hòa, cùng
các làng Hữu Bộc, Trường Xuân... (nay thuộc Đông Ninh) từng
nổi tiếng từ Thế kỷ V và Thời Lê Ngọc Thế kỷ VII. Đông Hòa còn 3 di
chỉ khảo cổ khẳng định Văn hóa Đông Sơn, có đền thờ Lê Ngọc. Đông
Ninh còn đền thờ Nguyễn Chích, Lê Lan – Lê Lệnh (khai quốc công thần
thời khởi nghĩa Lam Sơn)
g/
Thành Hoàng Nghiêu (nay
thuộc xã Đông Nam, Đông Sơn) cách Phúc Ấm 6km là di tích lịch sử từ
Thế kỷ XV của Nguyễn Chích.
Như
vậy, trong bán kính cách làng 10km có mật độ di tích, huyền tích... dày đặc,
liên quan chặt chẽ trong không gian cộng đồng làng quê. Điều đó càng khẳng định
các ảnh hưởng của lịch sử đến sự hình thành, tồn tại và phát triển của làng
Phúc Ấm.
Văn hóa Đa Bút: nền
văn hóa Việt Nam ở sơ kỳ thời đại đồ đá mới có niên đại
sau các nền văn hóa Hòa Bình và Bắc Sơn, cách đây từ 5000 đến 6000 năm. Không
gian của văn hóa Đa Bút là dải đất nằm từ hữu ngạn sông Đáy đến tả ngạn sông Mã thuộc các tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa ngày nay. Xem
tại trang website
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%C3%B3a_%C4%90a_B%C3%BAt
(truy cập ngày 1-8-2021).
Xem tại website
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%ADu_Ch%C3%A2n (truy cập ngày 25-7-2021).